Trường chuyên đứng trước yêu cầu nhân lực do cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đặt ra
Nên nhớ rằng, người tài phải được xã hội công nhận, bởi thế, trở thành người tài là vấn đề xã hội chứ không phải là vấn đề sinh học, và cũng không phải cứ nhà trường cho là người tài thì đương nhiên xã hội công nhận là người tài...

Ảnh minh họa Internet
I. Một thời trường chuyên lên ngôi
Vào phần sau của thập niên 1961-1970, hệ thống trường Trung học phổ thông chuyên ở nước ta bắt đầu được xây dựng. Nhiều nhà khoa học có tên tuổi như Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Ngụy Như Kon Tum... cũng mong đợi sự kiện này bởi hi vọng rằng, đây là cơ hội để phát triển tài năng của những thanh thiếu niên có thành tích cao trong học tập. Vào thời điểm đó, trường chuyên như một biểu tượng của một bước đi mang tính đột phá trong phát triển của hệ thống trường trung học phổ thông nước nhà.
Cho đến nay, theo một số liệu thống kê, cả nước có 8 trường chuyên trực thuộc các trường đại học, 84 trường chuyên trực thuộc sự quản lý của chính quyền địa phương cấp tỉnh và 4 trường Trung học phổ thông có hệ chuyên trong trường.
Điển hình của hệ thống trung học phổ thông chuyên ở nước ta là trường trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam, khai giảng ngày 05/9/1985, tính đến nay, nhà trường vừa tròn 40 năm xây dựng và phát triển (1985-2025).
Trong 40 năm qua, Trường Amsterdam đã dành 280 giải quốc tế, 1354 giải quốc gia, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông và trúng tuyển đại học hằng năm đạt 100%... Những con số biết nói này vô cùng hấp dẫn các bậc cha mẹ có con học trung học phổ thông, khá đông sẵn sàng chấp nhận sự tốn kém miễn sao con mình được học tại ngôi trường vào loại tốt nhất Thủ đô và chất lượng đào tạo chuyên để thuận lợi trong cuộc đua giành ghế ở trường đại học.
Vì thế, các kỳ thi vào lớp 10 của trường chuyên bao giờ cũng sôi động và là cuộc “chọi” rất gay cấn. Lấy một ví dụ:

Trường chuyên ở các tỉnh, thành phố cũng có vị thế tương tự như các trường chuyên ở Hà Nội.
Rất nhiều người khi đã làm việc ở doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, cơ quan hành chính... nào đó thường cũng được đồng nghiệp nể phục: “Bạn ấy vốn là học sinh trường chuyên đấy!”.
II. Những bất cập của trường chuyên khi xã hội đi vào phát triển kinh tế tri thức với sự thúc đẩy của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
1. Trong xã hội công nghiệp 2.0, những lao động trong nhà máy được gọi là “Công nhân áo xanh” - những người thợ lấm lem dầu mỡ trong suốt ca làm việc. Trong các cơ quan hành chính - sự nghiệp, những công chức, viên chức có trình độ trung học là tốt lắm rồi. Vì thế, được đào tạo chuyên sâu về từng môn học (toán, vật lý, sinh học, hóa học, ngoại ngữ...) sẽ có cơ hội học lên cấp học cao hơn và sẽ thuận lợi trong việc tiếp thu tri thức.
Nhưng nhiều nhà thông thái từ trước đó đã nhìn thấy một xã hội tương lai đòi hỏi con người cần đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực nghề nghiệp trên nền tảng một học vấn liên ngành và xuyên ngành .
Albert Einstein (1879-1955) - nhà vật lý học vĩ đại nhất của mọi thời đại - đã nhìn thấy vấn đề này. Ông viết: “Dạy cho con người một chuyên ngành thì chưa đủ. Bởi bằng cách đó, anh ta tuy có thể trở thành một cái máy khả dụng nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Điều quan trọng là anh ta phải được dạy để có một cảm thức sống động về cái gì là đáng để phấn đấu trong cuộc đời. Anh ta phải được dạy để có một ý thức sống động về cái gì là đẹp, cái gì là thiện...
... Quá nhấn mạnh đến hệ thống ganh đua cũng như chuyên ngành hóa quá sớm vì tính hữu dụng trực tiếp sẽ giết chết tinh thần. Trong khi đó, tất cả đời sống văn hóa và rốt cục, cả những tinh hoa của các ngành khoa học chuyên biệt cũng lại phụ thuộc vào tinh thần ấy.
Ngoài ra, một điều nữa cũng thuộc về bản chất của một nền giáo dục có giá trị là lối tư duy phê phán độc lập phải được phát triển ở những người trẻ tuổi - một sự phát triển đang bị đe dọa trầm trọng bởi sự nhồi nhét (hệ thống điểm số). Giáo dục nhồi nhét tất yếu dẫn đến sự nông cạn và vô văn hóa. Cần có cách dạy làm sao để học sinh cảm thấy những điều học được học là một quà tặng, quý giá chứ không phải là nhiệm vụ ngán ngẩm”.
Hơn hai mươi năm trước, tôi đọc bài viết này của Einstein và giật mình vì cảm thấy, trong nội dung ông viết như có ám chỉ một phần nào đó về trường chuyên ở Việt Nam.
2. Sau hàng chục năm hoạt động, trường chuyên nước ta đứng trước nhiều ý kiến trái chiều và câu hỏi đặt ra là: Mô hình trường chuyên hiện đã lỗi thời và bất công, liệu có nên để tồn tại tiếp hay không?
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, cựu học sinh trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam đã phát biểu với những nội dung như sau:
- Những học sinh có nguyện vọng đăng ký thi vào lớp 6 của trường chuyên Hà Nội - Amsterdam đều có tất cả các môn học ở lớp 5 toàn điểm 10. Chỉ riêng có được số điểm cao tuyệt đối này đã là một kỳ tích “không tưởng”. Áp lực học đạt điểm cao với các em nhỏ lớp 5 chắc chắn là quá lớn đến tâm lý chúng. Để học đạt thành tích ấy, trẻ không còn có tuổi nhi đồng vui tươi hồn nhiên được.
- Đầu tư của Nhà nước cho trường chuyên rất lớn, mà con nhà khá giả trở lên mới có điều kiện theo học trường chuyên. Con nhà nghèo khó lòng đạt được điều kiện này. Do vậy, trường chuyên mang tính “đẳng cấp” trong xã hội mà sự giàu - nghèo còn chênh lệch lớn. Hơn nữa, tiền đầu tư của Nhà nước cho trường chuyên lại do trẻ em nhà giàu thụ hưởng là chính .
3. Từ lâu UNESCO đã cảnh báo rằng, đã đến lúc học vấn trung học phổ thông không còn là tấm hộ chiếu để học sinh tốt nghiệp lớp 12 đi thẳng vào lao động sản xuất. Những thanh niên mới lớn này phải có trình độ sau trung học. Vì thế, việc chạy đua vào đại học trở nên rất quyết liệt.
Với lối tuyển sinh vào đại học hiện nay, học sinh trường chuyên được nhồi nhét kiến thức sách vở chuyên sâu từng môn học sẽ có nhiều cơ hội trúng tuyển vào đại học. Đây là lý do nhiều phụ huynh muốn giữ trường chuyên, không cần nó đổi mới, chỉ cần nó giúp con mình có lợi thế trên con đường chiếm lĩnh được chỗ ngồi trong trường đại học nào đấy. Vì vậy, các vị phụ huynh tiếp tục đưa con mình vào cuộc chạy đua để có bảng điểm đẹp, có các giải thưởng trong các kỳ thi tóa, thi văn, thi lên đỉnh Olympia.. “Học để thi” là mục tiêu cuối cùng của con đường học hành, thi đỗ cao, đứng đầu trong kỳ thi tuyển vào đại học là danh giá của gia đình, là sự “ổn định” về con đường tương lai của con cái v.v...
Cái tâm lý thi cử của cha mẹ học sinh làm cho trường chuyên yên tâm, cứ tập trung vào học thật sâu từng môn học, không cần phải lo đổi mới nội dung, mục tiêu đào tạo, phương pháp giảng dạy của mình. Đa phần trường chuyên chỉ cho học sinh những kiến thức môn học, ít có trường chuyên tính đến sự phát triển những tài năng trong các lĩnh vực công nghệ hiện đại, đến học thuật của nhà khoa học, đến tài năng hội họa, âm nhạc, thể thao... cái đó là chuyện của trường năng khiếu, mà trường năng khiếu thì khó lòng có ở cấp xã.
4. Nhiều người cho rằng để việc đầu tư vào trường chuyên của Nhà nước và của từng địa phương được nhân dân thụ hưởng công bằng, trường chuyên cần chuyển thành trường năng khiếu. Còn chuyên Toán, chuyên Văn, chuyên Vật lý... thì để tư nhân làm. Nghe ra có vẻ hợp lý, song không ít người phản bác, vì để tư nhân làm thì học phí sẽ được đẩy lên quá cao. Cuối cùng, người có thu nhập thấp vẫn là nhân vật chính đứng nhìn con mình không được học “chuyên” như con em người khác.
5. Cựu học sinh chuyên Lý trường THPT chuyên khoa học tự nhiên - anh Nguyễn Quốc Thịnh - cho rằng, phần lớn các trường chuyên chưa làm tốt chức năng đào tạo chuyên sâu. 80% học sinh trường chuyên tập trung vào học chương trình thi đại học, y như trường THPT không chuyên đào tạo để thi tuyển đại học, còn 20% mới được đi chuyên sâu vào môn học để xếp vào các đội tuyển làm nhiệm vụ thi đấu trong và ngoài nước nhằm có một số thành tích tạo thương hiệu. Nhiều người dân bảo rằng, đây là cách chọn “gà nòi” chứ không phải cách tìm kiếm nhân tài cho xã hội.
Bên cạnh những người bác bỏ trường chuyên thì không ít người vẫn rất muốn đổi mới trường chuyên chứ không xóa bỏ nó. Trong những người muốn giữ lại trường chuyên có nhiều em học sinh. Những em này có ước mong sau này mình là chuyên gia một lĩnh vực sản xuất nào đó như chuyên gia về Hóa chất, về Vật lý nguyên tử, về Toán học hay về Sử... Ý thức ấy rất đáng được hoan nghênh và tôn trọng.
Tôi là một chuyên gia hướng nghiệp, tôi luôn luôn ủng hộ sự tự do chọn nghề của thế hệ trẻ. Nhưng tôi đã cố ý dẫn ra ý kiến của Albert Einstein ở mục II trên kia, bởi nhà bác học thiên tài này muốn các nhà giáo dục và thế hệ trẻ hiểu rằng, con người phải phát triển toàn diện, phải có kiến thức đa ngành, đa lĩnh vực trước khi có kiến thức chuyên sâu để thành một chuyên gia về những nghề hiện đại ở giữa thế kỷ XXI. Một nhà Toán học mà không hiểu lịch sử văn hóa của dân tộc mình, không quan tâm đến văn học, xã hội học, tâm lý học, chắc hẳn các công trình toán của ông khó có được những ứng dụng phục vụ cuộc sống của đất nước, của thế giới. Một nhà vật lý học xuất chúng không chỉ có những tri thức hơn người về khoa học vật lý. Vị đó sẽ không thể trở thành người khổng lồ trong vật lý học. Jean-Paul Sartre (Tên đầy đủ: Jean-Paul Charles Aymard Sartre, 1905-1980) là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ông có lý khi nói rằng: Người tìm ra năng lượng nguyên tử là một trí thức, còn người chế ra bom nguyên tử thì không.
Tôi tâm đắc ý này và mong muốn, chúng ta đừng chuyên môn quá sớm những thế hệ trẻ của đất nước, của nhân loại. Tôi cho rằng, mô hình trường chuyên của nước ta cần được đánh giá khi tính đế việc kéo dài sự tồn tại của nó. Đồng thời, nên nghiên cứu mô hình trường chuyên của một số quốc gia phát triển để định hướng lại cho một hệ thống trường chuyên mới. Ta đánh giá cao mô hình trường chuyên hiện có vì những đóng góp của nó, nhưng khi vai trò của nó đạt đến một mức độ nhất định, nó có thể đi vào lịch sử. Đó là quy luật tất yếu chứ không bắt nguồn từ những thiên kiến thiếu khách quan.
III. Tham khảo một vài mô hình trường chuyên trên thế giới
Khái niệm trường chuyên (Specialist/Specialized school) đã có từ lâu trên thế giới. Thuật ngữ này gần với khái niệm Selective School của Úc (Trường chọn chuyên); Magnet School của Mỹ (Trường công lập có khóa học chuyên); Realschule của Đức, Thụy Sĩ (Trường thực hành có phạm vi học thuật rộng); Gymnasium của Đức (Trường trung học dạy chuyên sâu một số môn) v.v...
Ở Úc, Chính phủ có chính sách giáo dục riêng cho những học sinh có năng khiếu và tài năng (Gifted and talent education Policy), về sau đổi thành chính sách giáo dục học sinh có năng khiếu và tiềm năng cao (High potecial and gifted education Policy - HPGE). Ngoài ra, Úc còn có trường Trung học thực hiện chính sách học vượt cấp (Select entry accelerated learning programe - SEAL). Người ta còn xây dựng Chương trình tú tài hai năm (Australian C’ertificate of Education -ACE), dành cho học sinh lớp 11 và 12, chuẩn bị cho các em học sinh vào đại học. Chương trình này được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới.
Chương trình ACE mang đến một lộ trình giáo dục toàn diện, trang bị cho học sinh nền tảng kiến thức, bộ kỹ năng và những năng lực cốt lõi, cần thiết ở thế kỷ XXI. Chương trình ACE đề cao sự xuất sắc và công bằng trong học thuật, cho phép học sinh trải nghiệm và bổ sung kiến thức trải rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, khoa học, công nghệ, nghệ thuật..., tạo điều kiện để học sinh tự điều chỉnh lộ trình học tập theo sở trường của từng cá nhân, thực hiện được nguyện vọng tương lai. Học sinh có thể được học những trường đại học tốt nhất ở Úc và của thế giới.
Giáo dục phổ thông ở Úc nằm dưới sự quản lý của các bang. Hầu như, mỗi bang của Úc đều có chương trình tú tài hai năm với những khác biệt so với bang khác.
Ở Bang Queensland có chương trình Queensland Certificate of Education (QCE);
Bang New South Wales có chương trình Higher School Certificate (HSC);
Bang Victoria có chương trình Victoria Certificate of Education (VCE);
Bang Nam Úc có chương trình South Australian Certificate of Education (SACE).
Bang Tasmania có chương trình Tasmania Certificate of Education (TCE);
Bang Tây Úc có chương trình Western Australian Certificate of Education (WACE).
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, trường Trung học Gymnasium là mô hình trường dành cho những học sinh có học lực xuất sắc. Trường giúp học sinh có khả năng học tập và nghiên cứu chuyên sâu, mục tiêu chủ yếu là chuẩn bị vào đại học.
Chương trình học của Gymnasium bắt đầu từ lớp 5 đến lớp 12 (hoặc 13) tùy thuộc từng bang.
Chương trình tập trung vào các môn sau:
- Ngoại ngữ (2 hoặc 3 ngôn ngữ);
- Toán học;
- Khoa học tự nhiên (Lý, Hóa, Sinh);
- Khoa học xã hội và nghệ thuật.
Học từ lớp 5 đến lớp 10 học sinh đã có thể tham gia kỳ thi lấy bằng tốt nghiệp, đủ điều kiện vào đại học (mặc dù khóa học là đến lớp 12).
Ở Đức, người ta coi Gymnasium là trường trung học cao cấp. Nó khác với mấy loại hình trung học sau:
• Realshule: Cung cấp nền tảng vững chắc để học sinh có thể học nghề sau khi xong khóa học, hoặc học lên đại học.
• Hauptschule: Cung cấp kiến thức cơ bản và định hướng chọn nghề cho những học sinh có năng lực học trung bình hoặc yếu.
• Gesamtschule: Loại hình trường tổng hợp, cung cấp nhiều lựa chọn khác nhau, tạo điều kiện cho học sinh phát triển năng lực của mình.
Tại Đức, mọi cư dân đều có quyền chọn cho mình một nền giáo dục phù hợp với khả năng và nguyện vọng nghề nghiệp. Luật “Khuyến khích tinh hoa” cho phép trẻ có năng khiếu tham gia các lớp học đặc biệt để phát triển các kiến thức chuyên môn và các kỹ năng nhận thức.
Các lớp học bồi dưỡng tài năng ở Đức không có học phí.
Ở Mỹ, trường chuyên (Magnet School) là một loại hình trường có nhiều điểm đặc sắc, nổi bật so với các trường công lập thông thường. Một số đặc điểm khác biệt của Magnet School là:
- Chuyên môn hóa và tập trung
• Chương trình tập trung vào một lĩnh vực cụ thể như khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán (STEM), nghệ thuật biểu diễn hoặc các môn khoa học xã hội.
• Chương trình chuyên sâu cung cấp các khóa học nâng cao (AP-Advanced Placement, IB-International Baccalaureate) và các chương trình chuyên biệt để học sinh đi sâu vào lĩnh vực mà các em quan tâm.
- Tuyển sinh và môi trường học tập.
• Tuyển sinh cạnh tranh, học sinh phải đáp ứng các yêu cầu đầu vào chặt chẽ.
• Môi trường học tập đa dạng, học sinh phải có sở thích và đam mê.
- Cơ sở vật chất và nguồn lực
• Cơ sở vật chất hiện đại: Phòng thí nghiệm, studio nghệ thuật, các thiết bị chuyên dụng.
• Giáo viên chuyên môn cao, chuyên sâu lĩnh vực giảng dạy và phải có bằng cấp cao.
• Quan hệ đối tác: Trường chuyên có quan hệ chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức trong ngành để cung cấp các cơ hội học tập và thực tập.
Trường chuyên của Mỹ chuẩn bị rất tốt cho học sinh về nền tảng học thuật và kinh nghiệm nghiên cứu. Học sinh được phát triển các kỹ năng mềm, tư duy phản biện, năng lực giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc theo nhóm và kỹ năng lãnh đạo. Tất cả học sinh đều được môi trường học tập hỗ trợ và khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới.
Việc tuyển chọn học sinh không có giới hạn độ tuổi. Nhà trường luôn phát huy tận lực những năng lực tiềm ẩn trong từng học sinh.
IV. Đề xuất ý kiến về vấn đề trường chuyên ở Việt Nam
1. Tôi làm công tác nghiên cứu khoa học Tâm lý - giáo dục từ năm 1965. Với tôi, muốn đổi mới giáo dục, phải tiến hành thực nghiệm, không được dựa vào kinh nghiệm vốn có, không được dùng phương pháp tự biện (Speculation) với lối suy diễn chủ quan để suy diễn và kết luận. Ở Việt Nam, trước những ý kiến trái chiều về vấn đề tồn tại tiếp tục hay không của trường chuyên, cần có sự tổng kết nghiêm túc và đưa ra mô hình có tính giả định để thực nghiệm trên một số địa bàn dân cư khác nhau. Trên nền tảng thực nghiệm đó, ta mới tư vấn cho cơ quan có thẩm quyền nhằm đi tới kết luận cụ thể.
2. Cá nhân tôi cho rằng, mô hình trường chuyên hiện nay ở Việt Nam đã bộc lộ khá nhiều điểm không phù hợp với những yêu cầu xây dựng một nền giáo dục thông minh của thời đại. Đó là:
- Trường chuyên quá chú trọng vào từng môn học, đi quá sâu về lý thuyết, ít thực hành, thiếu quan tâm đến phát triển toàn diện cho học sinh.
- Thiếu sự đa dạng trong các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm xã hội của học sinh còn khá hạn chế.
- Chạy theo học để thi tuyển đại học và tham gia các kỳ thi quốc gia, quốc tế về từng môn học. Phần đông học sinh được đào tạo chủ yếu để cạnh tranh có hiệu quả cái ghế của trường đại học.
- Áp lực học tập cao, bào mòn sức khỏe học đường của học sinh. Nhiều học sinh lao vào học không còn thì giờ cho giải trí, tập luyện sức khỏe thể chất và tinh thần.
- Do phải tập trung cao vào một chương trình môn học nặng về lý thuyết, học sinh thiếu cơ hội thực hành, mặt khác, cũng thiếu điều kiện để phát triển các kỹ năng mềm, kỹ năng sống, thiếu kỹ năng tư duy phản biện và tư duy hệ thống, thiếu được rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức công dân, xa rời thực tế lao động sản xuất, nhà trường không gắn kết chặt với đời sống xã hội.
- Học sinh trường chuyên chưa nổi trội về ngoại ngữ, về giao tiếp xã hội, ít được rèn luyện về giao tiếp, về ý thức tôn trọng sự khác biệt văn hóa và sự đa dạng văn hóa trong thế giới. Học sinh cũng chưa được phát triển những năng lực cốt lõi mà thế kỷ XXI đòi hỏi.
- Nhiều trường chuyên vẫn chủ yếu giảng dạy theo phương pháp đối với đối tượng là thế hệ Y hoặc X để áp đặt lên thế hệ Z v.v...
Tuy tôi không phủ nhận mặt tích cực của trường chuyên hiện nay, nhưng tôi cũng không ủng hộ phát triển tiếp mô hình trường chuyên này trong giai đoạn 2025-2030.
3. Đứng trên lập trường và quan điểm của một chuyên gia về xã hội học tập, tôi có ý kiến như sau:
- Hầu như những nghề mới bắt đầu xuất hiện hoặc sắp xuất hiện đều phải đào tạo ở các trường đại học, vì thế đào tạo chuyên sâu (chuyên ngành) sẽ nên để trường đại học đảm nhiệm chức năng đào tạo chuyên.
Tốt nghiệp đại học, mọi sinh viên sẽ bắt tay vào lao động và cũng bắt đầu học tập suốt đời qua những hành trình tiếp cận tri thức mới (The Journey to get knowledge) và hành trình sáng tạo tri thức (The Journey for creating knowledge). Họ sẽ là nhân tài từ những hành trình học tập suốt đời chứ không phải cứ cầm bằng tốt nghiệp đại học với bìa đỏ chói đã là nhân tài.
Chỉ có qua những hành trình tri thức và sáng tạo tri thức, con người mới làm ra những sản phẩm riêng, kết tinh ở các Patents, Licenses, có những bí quyết (Know-how) trong các công nghệ mới hoặc có những sản phẩm cụ thể như máy móc, thuốc men, đồ mỹ nghệ, tiểu thuyết, bản nhạc,,,, Từ đó, người đời coi họ là nhân tài, chứ không phải đương nhiên họ là người tài.
Nên nhớ rằng, người tài phải được xã hội công nhận, bởi thế, trở thành người tài là vấn đề xã hội chứ không phải là vấn đề sinh học, và cũng không phải cứ nhà trường cho là người tài thì đương nhiên xã hội công nhận là người tài.
Nếu tôi không nhầm thì mọi người tài như Lev Nikolayevich Tolstoy, Charles Darwin, Tô Ngọc Vân, Tạ Quang Bửu, Ngô Bảo Châu... đã được người đời coi là những tài năng khi họ đã trải qua việc học tập suốt đời, chứ không phải do tấm bằng do nhà trường cấp.
Cho nên, hãy tạo cho mọi người, bất cứ lứa tuổi nào, chí ít cũng có một số kiến thức đại học để làm nền tảng, từ đó họ học tập suốt đời. Qua học tập suốt đời, một số người sẽ thật sự thành tài, còn đa số qua hành trình tri thức sẽ là những lao động tri thức (Knowledge workers).
Tóm lại, nhân tài phải là người biết và kiên trì, sáng tạo trong học tập suốt đời.
Ra khỏi trường chuyên cũng như rời ghế trường đại học mà trở thành nhân tài thì chỉ là chuyện hão huyền nếu không học tập suốt đời.
4. Rồi đây, theo một xu thế tất yếu của giáo dục hiện đại, đại chúng hóa giáo dục đại học là việc cần và sẽ thành hiện thực.
Ai rồi cũng có quyền với tay tới kiến thức đại học. Người ta sẽ đến trường đại học, có thể định hướng văn bằng, nhưng chắc đa số không vì mục tiêu ấy, mà chỉ là cần kiến thức đại học để nâng cao chất lượng sản phẩm mà họ đam mê sáng tạo. Trường đại học phải có khóa học MỞ để sẵn sàng chia sẻ cho bất cứ ai cần tri thức đại học. Mặt khác, những người lao động, những nhà kinh doanh, những nhân viên làm công việc dịch vụ, những người làm công việc trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, quân sự, thể thao... họ sẽ tự học ngay ở vị trí làm việc, đồng thời họ sẽ thường xuyên tìm những tri thức mới ngay trong lao động nghề nghiệp, trong hoạt động xã hội. Trong những tri thức họ tìm kiếm, tri thức được trường đại học chia sẻ có ý nghĩa to lớn với những người học tập suốt đời.
Vì thế, tôi cho rằng, đại học sẽ trở thành trường chuyên hiện đại. Còn trường chuyên truyền thống nên trở thành trường năng khiếu về hội họa, âm nhạc, điêu khắc, thể thao, thể dục dụng cụ v.v...
Chú thích:
1. Tri thức liên ngành (Interdisciplinary Knowledge): là khái niệm mô tả việc kết hợp, tích hợp và áp dụng kiến thức từ nhiều ngành khác nhau để giải quyết các vấn đề phức tạp, giúp cho người ta có cái nhìn tổng thể và đa chiều hơn về các hiện tượng, sự vật.
Tri thức xuyên ngành (Transdisciplinary Knowledge): là khái niệm nghiên cứu vượt ra khỏi các ranh giới truyền thống của các môn học, tìm cách tích hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết vấn đề trong thế giới thực, vượt qua giới hạn của các ngành học để tạo ra phương pháp tiếp cận mới, toàn diện hơn.
2. Trong giai đoạn 2010-2020, tiền đầu tư của nhà nước cho trường chuyên là 2.310 tỷ đồng. Nam Định đầu tư thêm 1500 tỷ đồng cho trường chuyên Lê Hồng Phong. Trường THPT chuyên tỉnh Bắc Ninh được đầu tư 600 tỷ đồng từ kinh phí của tỉnh. Ở thành phố Phủ Lý, trường THPT chuyên Biên Hòa cũng được địa phương cấp thêm 260 tỷ đồng để xây dựng cơ sở vật chất.