Trời thu xanh ngát sáng tuyên ngôn

Nhà thơ Tố Hữu, một người rất thành công khi viết về Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, trong bài thơ 'Theo chân Bác' đã có một câu thơ rất hay, giàu hình tượng khái quát, có sức gợi mở, lan tỏa: 'Trời thu xanh ngát sáng tuyên ngôn' viết về hình ảnh Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày Quốc khánh 2/9 tại Quảng trường Ba Đình cách đây 79 năm.

Lễ thượng cờ tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Ảnh: Tư liệu

Lễ thượng cờ tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Ảnh: Tư liệu

Có lẽ trong bốn mùa thì mùa thu Hà Nội đẹp nhất. Nhiều nhà thơ, nhạc sĩ đã có những tác phẩm hay khi viết về thu Hà Nội. Có một Trịnh Công Sơn tài hoa: “Hà Nội mùa thu - Cây cơm nguội vàng - Cây bàng lá đỏ”. Những sắc màu, gam màu rất thu, rất gợi cứ đan xen nhau tạo ra một tổng thể của đất trời thiên nhiên hòa hợp với lòng người. Thu Hà Nội còn là “mùa thu cách mạng”, mùa thu khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vòm trời mùa thu cao rộng với một màu xanh ngát, xanh trong lòng người, xanh trong không gian bát ngát, một màu xanh chan chứa bao nỗi niềm chia sẻ; một màu xanh của hy vọng, của một sức sống mới, một đời sống mới hân hoan.

Và trong tôi bỗng ngân vang giai điệu thiết tha của bài hát “Ba Đình nắng” của nhạc sĩ Bùi Công Ký phổ thơ Vũ Hoàng Địch. Ở đây, trong ánh nắng thu vàng ngọt và trong suốt là sắc màu cờ đỏ sao vàng lồng lộng trong gió bay bỗng trở nên thiêng liêng với bao hào khí, bao hân hoan reo vang từ những dòng người đổ về Quảng trường Ba Đình lịch sử để chào đón niềm vui bất tận. Đó là khi: “Gió vút lên ngọn cờ trên kỳ đài phơi phới - Gió vút lên đây bao nguồn sống mới dạt dào - Tôi về đây lắng nghe bao tiếng người - Của mùa thu cách mạng, mùa vàng sao” (Ba Đình nắng). Hình ảnh Bác Hồ hiện lên thật giản dị, vô cùng thân thiết, gần gũi với mọi người như một vị cha già dân tộc đã được nhạc sĩ vẽ nên thật đẹp trong giai điệu thành kính tha thiết mà thiêng liêng biết bao: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không - Ôi thân thiết lời cha già dân tộc - Bộ kaki đã bạc với gió sương”.

Qua những tư liệu, những thước phim, những bức ảnh từ ngày ấy lưu lại những phút giây hiếm có hình ảnh một vị lãnh tụ đã trải qua bao tháng năm đi tìm đường cứu nước mà nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát một hình tượng rất hay: “Người đi tìm hình của nước”. Hình đất nước Việt Nam, hình chữ S thân yêu mềm như một dải lụa đào nhưng cũng mang cả năng lượng mới hình tia chớp. Hình của nước là Tổ quốc Việt Nam là kết quả của cuộc trường kỳ đấu tranh với tất cả sức mạnh của trầm tích truyền thống lịch sử ngàn đời. Và hôm nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Sau này, Bác Hồ đã đúc kết thành một chân lý thời đại truyền bao cảm hứng cho dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đứng trên kỳ đài, Bác vẫn bộ quần áo giản dị với một câu hỏi không có trong Tuyên ngôn độc lập nhưng đã rút ngắn lại khoảng cách giữa lãnh tụ với toàn dân: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Ôi hai tiếng “đồng bào” sao mà thân thiết chứa chan tình cảm biết bao. Một dân tộc được sinh ra chung một bọc trứng theo truyền thuyết mẹ Âu Cơ cùng chung nguồn cội con Lạc cháu Hồng, cùng chung một ý chí chảy trong huyết quản đó là lòng yêu nước nồng nàn mà chính từ bậc thềm của đền Hùng, Bác đã căn dặn các chiến sĩ của Đại đoàn Quân tiên phong: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Trong ngày trọng đại lịch sử này, Bác đã “sáng tuyên ngôn”. Có thể nói chỉ một hình ảnh nhà thơ Tố Hữu đã bức xạ hào quang làm sống lại những giá trị to lớn có sức sống bền bỉ và lan tỏa của một áng văn hùng hồn có sức thuyết phục lớn lao cả về mặt pháp lý và đạo lý. “Tuyên ngôn sáng” trong nắng thu vàng mà mỗi dòng chữ hun đúc bao suy nghĩ sâu sắc của Bác, mỗi hàng chữ được đổi bằng bao mồ hôi, xương máu, bao sự hy sinh của anh hùng liệt sĩ. “Tuyên ngôn sáng” bởi vẻ đẹp nhân văn chính nghĩa. “Tuyên ngôn sáng” chiếu rọi đến mỗi bờ tre, ruộng lúa chín vàng trải rộng từ châu thổ sông Hồng đến Cửu Long giang bát ngát. “Sáng tuyên ngôn” từ mỗi ngôi nhà, mỗi số phận con người gắn bó với cộng đồng dân tộc. Một dân tộc đã từng đứng lên đánh giặc ngoại xâm với hai bản tuyên ngôn bất hủ là bài thơ của Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà nam đế cư” và “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi. Một dân tộc mà nhà thơ Huy Cận đã tạc thành tượng đài trong thơ: “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững - Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”. Một dân tộc mà: “Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt - Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” trong bài thơ thật hào sảng “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” của nhà thơ Chế Lan Viên. Chưa bao giờ hình ảnh Tổ quốc lại có tầm vóc lớn lao được tuyên ngôn khẳng định, được tuyên ngôn rọi sáng, được tuyên ngôn cộng hưởng của một văn bản pháp lý rất hiện đại phù hợp với sự phát triển của cuộc đấu tranh dân tộc, của tất cả dân tộc bị áp bức, bị nô dịch trên toàn thế giới. Nó khẳng định địa vị pháp lý của nền độc lập và chủ quyền của một quốc gia của toàn nhân loại. “Sáng tuyên ngôn” bởi chính luận của áng văn đầy cảm xúc của ý chí sắt đá được Bác viết giản dị với hàm lượng tri thức, trí tuệ văn hóa cao bởi vốn ngoại ngữ phong phú của Người có sức thuyết phục lay thức lớn. “Sáng tuyên ngôn” bởi ngôn ngữ của “Tuyên ngôn độc lập” là ngôn ngữ văn kiện chính trị hướng đến công chúng với đối tượng là quốc dân và thế giới trong một cảm hứng hào sảng cao độ, cảm xúc dâng trào ngọn bút qua hai từ độc lập và tự do. Lối văn của Bác kết tinh một thứ tiếng Việt tạo sự hài hòa truyền cảm lớn. “Tuyên ngôn sáng” bởi đây là bản tuyên ngôn về giá trị con người mang đầy đủ hào khí Việt của con người Việt từ nội lực giống nòi, từ hồn thiêng sông núi, từ khí phách dân tộc.

79 năm đã trôi qua mà âm hưởng của ngày trọng đại lịch sử vẫn còn vang vọng mãi. Từ một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đối phó với bao “thù trong giặc ngoài”, dân tộc Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu đã vượt qua bao thác ghềnh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong muốn của Bác Hồ. Và trong thời đại Hồ Chí Minh hiện nay, đất nước ta với những thành tựu to lớn vượt bậc đã được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo là kết quả cả một quá trình nỗ lực bền bĩ liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta”.

Vào ngày 2/9/1945, Bác đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập thì cũng đúng ngày 2/9/1969 cách đây 55 năm, Bác Hồ kính yêu cũng đã từ biệt chúng ta nhẹ nhàng, thanh thản đi vào “thế giới người hiền”. Bác ra đi và để lại bản Di chúc lịch sử. Đây cũng là một văn bản rất xúc động với bao trí tuệ và tình cảm của Bác, là một văn kiện lịch sử vô giá của Nhân dân Việt Nam. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc đã định hướng cơ bản quan trọng đối với công cuộc chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của ngày hôm nay và mai sau. Giá trị trường tồn của Tuyên ngôn độc lập và bản Di chúc vẫn còn mãi mãi. Một con người, hai thời điểm lịch sử đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta hai văn kiện đặc biệt quan trọng thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh. Dù Bác đã đi xa nhưng hình ảnh Bác trong nắng xanh Quảng trường Ba Đình, trong sắc đỏ màu cờ và ánh sao vàng năm cánh vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Người đứng trên đài lặng phút giây/ Trông đàn con đó vẫy hai tay/ Cao cao vầng trán ngời đôi mắt/ Độc lập bây giờ mới thấy đây”…

Tùy bút: NGUYỄN NGỌC PHÚ

Nguồn Lâm Đồng: https://baolamdong.vn/van-hoa-nghe-thuat/202409/troi-thu-xanh-ngat-sang-tuyen-ngon-7a01c78/
Zalo