Trâu ơi ta bảo trâu này

Trong cái dáng dấp cục mịch, quê mùa, chậm chạp nhiều so với thân thể to lớn dềnh dàng của nó. Trâu là con vật gần gũi và có ích nhất đối với con người trong công việc đồng ruộng, ở những quốc gia có nền văn minh phát triển về lúa nước ở châu Á.

Đủng đỉnh, vô tư, thậm chí là lờ đờ với cái kiểu bề ngoài bất cần đời, phong cách của một triết gia “Khinh thế ngạo vật”. Đánh đập, xỉ vả, trâu không thèm chấp. Nặng nhẹ hơn thua trâu không để bụng. Sẵn sàng làm hết những việc nặng nhọc do con người hướng dẫn, dù cho đó là một đứa trẻ con nhỏ nhắn với cây sáo trúc trên tay. Công việc chuyên cần và phù hợp tốt nhất đối với con trâu trong việc phụ giúp con người là cái sức kéo mạnh bạo mà nó có, cùng với sức chịu đựng gian khổ không cùng của nó.

Ảnh minh họa. Nguồn Internet

Ảnh minh họa. Nguồn Internet

Kéo xe, kéo cày, kéo cột ép mía, kéo cối xay, đạp lúa. Thậm chí cả kéo pháo, thồ hàng trong chiến tranh như cả ngựa và voi. Những chú trâu khi chưa đến tuổi trưởng thành, chỉ biết có ăn no, làm việc nhẹ và vui đùa cùng trâu trang lứa hay những con vật khác. Ít khi thấy nó có dáng vẻ hung dữ, đe dọa kẻ khác. Chỉ khi đến lúc trưởng thành đầy đủ với tư cách của một kẻ mạnh, với bản năng sinh tồn cùng sự hưng phấn trong nhu cầu kích thích truyền giống. Con trâu trong hoang dã hay một phần trong con trâu đã thuần hóa, nó sẵn sàng đánh gục đối thủ của mình bằng cái sức mạnh của cái đầu cứng, cái cần cổ vững mạnh và đôi sừng dài cong không có đối thủ của mình. Đến cả các đối thủ mạnh khác như sư tử, hổ, báo, cũng phải chạy dài trước sự quật cường và đoàn kết của đám trâu bầy.

Trong xã hội thuần nông đời trước như Việt Nam ta, những giống trâu đã được thuần hóa nhiều đời, gắn liền với đời sống và sự phát triển của xã hội. Con trâu đã được hình tượng hóa, được hòa vào văn hóa xã hội, văn hóa dân gian, văn hóa tín ngưỡng. Đã có những tục lệ, hội chơi, trò chơi, những ca dao, hò vè, giai thoại, huyền tích của con trâu gắn với đời sống con người còn lưu giữ đến bây giờ. Lễ tịch điền (xuống đồng), lễ cúng trâu, đâm trâu, hội chọi trâu hàng năm vẫn còn lưu giữ. Con trâu khi cần thiết có chạm trán nhau trên đồng ngoài bãi hay trong sới chọi. Với tinh thần của một võ sĩ, chúng sẽ trợn mắt nhướng mày, vênh sừng khịt mũi, chân trước cào cấu, chà xát lớp đất dưới chân để áp đảo đối thủ. Nếu chấp nhận, cả hai sẽ lao thẳng vào nhau quyết đấu cho đến khi có một con ngã gục hoặc chạy dài. Còn nếu đối thủ biết thân không kháng cự lại, thì chỉ với một cái chạm sừng, sau đó lảng đi hay cúi xuống tha thẩn gặm cỏ thì mọi việc lại nhẹ nhàng. Kẻ mạnh không so đo, không chấp nhất.

Bản tính của trâu là hiền lành và chịu đựng nên dù có biết nghe được những lời mượn gió bẻ măng khi bị mắng: Lì như trâu, ngu như trâu. Lỗ tai trâu, đàn khảy tai trâu. Trâu vẫn ung dung không giận dữ, dỗi hờn, vẫn vui lòng phục tùng và làm việc với tinh thần tự nguyện. Chỉ có khi đang làm mệt chờ được nghỉ thì một tiếng “hò hay dọ” của ai đó thì dứt khoát trâu đứng lại ngay. Còn sau đó thì cho dù “Tả hữu, phải trái. Thá dí, tá ví” cũng phải nhọc công lắm mới lôi được con trâu nhúc nhích trên đường cày.

Trâu ơi ta bảo trâu này… Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Cấy cày là việc nông gia. Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Khi nào ngọn lúa đầy bông. Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Xem ra có phần hơi bạc đãi, nhưng trâu cũng không phiền muộn gì. Bởi dù sao con trâu cũng đã được chọn là bầu bạn của các bậc thánh nhân từ lúc xa xưa, không hề câu nệ. Ở Việt Nam ta có bài hát Chăn trâu. Ai bảo chăn trâu là khổ. Chăn trâu sướng lắm chứ. Ngồi mình trâu phất ngọn cờ lau và em hát nghêu ngao. Vui thú chăn trâu nhưng không quên học hành đâu. Ngồi đầu non gió mát, cất tiếng ca tiếng hát vang xa, em đánh vần thật mau. Kìa nghe sáo diều trên bờ đê vẳng xa, lùa trâu vô đồng gánh nước nữa là xong, khoai lùi bếp nóng ngon hơn là vàng. Cuộc sống sao mà hồn hậu, mộc mạc đơn sơ như tâm hồn thuần khiết của người dân Việt. Với một kiểu cách trào phúng “Mài sừng cho lắm cũng là trâu”. Hay là: Thằng Bờm có cái quạt mo. Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu. Trong truyện kể ở giai thoại Trạng Quỳnh thời Lê Trịnh: Trạng Quỳnh đã mạnh dạn tâu trình với Vua và Chúa là đừng lo. Khi sứ thần phương Bắc mang con trâu chiến của họ sang thách đấu với trâu ta. “Thần có con trâu chọi vô địch, xin bề trên đừng lo”. Đến gần ngày chọi trâu, Quỳnh lấy một con nghé còn bú sữa mẹ đem nhốt riêng trước, cho nó khát sữa. Lúc thả trâu tại bãi chọi, ai cũng bụm miệng cả cười. Trâu người sao mà to lớn hung hăng, còn trâu ta chỉ là con nghé. Trạng Quỳnh tuyên bố: Trâu nào chạy trước ra khỏi vòng đấu là thua. Lúc xung trận, con trâu lớn không có đối thủ còn đang ngơ ngác, thì con nghé con khát sữa cứ lủi nơi háng trâu mà tìm nguồn sữa. Trâu lớn bị nhột cứ lảng ra, lảng ra rồi sau đó chạy dài. Và thế là trâu Nam ta thắng.

Tại sao là trâu mà không phải là bò?

Ai cũng biết, bò cũng như trâu. Cũng công việc đồng áng cực khổ đủ điều. Nhưng hình ảnh con trâu lại gắn bó nhiều hơn với đời sống xã hội lao động và văn hóa làng xã Việt nhiều hơn. Con trâu không chỉ với ruộng đồng! Hình ảnh con trâu đã được truyền tụng qua tư tưởng Thiền Tông vào năm 1772, dưới triều vua Lê Dụ Tông. Thiền sư Thích Quảng Trí đã chú giải lại từ bản gốc Thập mục ngưu đồ của phương Bắc thành Thập mục ngưu đồ tụng (Mười bức tranh chăn trâu). Với nội dung của nó là từ con trâu đen ở bức thứ nhất, biểu hiện cho sự u minh, tăm tối lúc ban đầu. Cho đến bức thứ mười biến thành trâu trắng, biểu hiện cho việc ngộ đạo, thoát trần. Trong định nghĩa “Thập nhị chi” biểu hiện cho năm tháng và tướng số, vận mệnh con người. Con trâu cũng có phần, mà lại được đứng ngôi thứ hai. Trong y học, thịt trâu (ngưu nhục) được xếp vào loại thuốc mát trợ lực. Trong sách thuốc còn có thêm vị Ngưu Tất (ngưu túc) Cỏ chân trâu. Còn trong văn học dân gian thì chuyện của trâu rất nhiều: Truyện Chức Nữ Ngưu Lang của phương Đông và hai chòm sao thiên văn mà phương Tây đã đặt tên, sao Ngưu (Taureau) và sao Chức (Véga). Truyện cười Việt Nam có truyện con trâu chỉ cho con cọp đi tìm trí khôn của loài người. Và kết quả là con trâu đã cười văng cả hàm răng khi con cọp biết được trí khôn của loài người nằm ở đâu.

Có lẽ, có một cách lý giải khả dĩ có thể chấp nhận được là: Hình ảnh con trâu gắn liền với xã hội và văn hóa Việt bắt đầu từ những ngày lập quốc xa xưa theo truyền sử. Đất người phương Nam vốn còn thô lậu, chưa biết nhiều về nông nghiệp và chăn nuôi, cũng như vốn không có đồ khí vật bằng sắt để canh tác và cả con trâu là con vật đã thuần ở phương Bắc về việc cày bừa. Trong giao thiệp với nhau thì không bán đồ sắt, còn sức kéo thì chỉ bán trâu đực chứ không bán trâu cái để sinh sản. Theo lịch sử, năm 207 trước Tây lịch, Triệu Đà lập mưu đánh được An Dương Vương, rồi sáp nhập nước Âu Lạc vào quận Nam Hải lập thành một nước gọi là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (gần thành Quảng Châu bây giờ). Triệu Đà nhận thụ phong của nhà Hán, nhưng do hiểu lầm việc không bán trâu cái và đồ chiến khí bằng sắt nên đã khởi binh đánh quận Trường Sa của nhà Hán. Sau khi Hán Đế nghe ra lý do, mới ban lệnh bán đầy đủ về phương Nam các vật theo yêu cầu, nhằm dễ bề thu phục sau này.

Con trâu đã đi vào văn hóa Việt rất lâu, và nó cũng đã song hành trên mấy ngàn năm cùng đất nước. Hình ảnh con trâu đậm nét hơn là như vậy.

NGUYỄN DŨNG

Nguồn Bình Thuận: https://baobinhthuan.com.vn/trau-oi-ta-bao-trau-nay-128239.html
Zalo