Tránh rủi ro thuế quan của Hoa Kỳ, cấp thiết đa dạng hóa thị trường cho dệt may, da giày
Đa dạng hóa thị trường dệt may, da giày trong bối cảnh Hoa Kỳ điều chỉnh thuế nhập khẩu là vấn đề cấp thiết được đặt ra tại Hội nghị giao ban xúc tiến thương mại với hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tháng 5/2025 của Bộ Công Thương...

Xuất khẩu da giày Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới.
Bộ Công Thương đánh giá ngành dệt may, da giày đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam và liên tục xếp hạng cao về kim ngạch xuất khẩu cũng như nhu cầu sử dụng lao động.
CÒN NHIỀU THỊ TRƯỜNG TIỀM NĂNG CHƯA ĐƯỢC KHAI THÁC
Bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội da giày và Túi xách Việt Nam (Lefaso), cho biết ngành giày dép Việt Nam hiện đứng thứ ba thế giới về sản xuất (sau Trung Quốc và Ấn Độ) với 1,4 tỷ đôi năm 2024; đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu (sau Trung Quốc), với 1,3 tỷ đôi. Châu Mỹ và châu Âu là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của giày dép Việt Nam.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất với ngành hiện nay là những bất ổn kinh tế thế giới, chúng ta bị phụ thuộc rất nhiều vào tình hình của thị trường toàn cầu, bởi trên 90% giày dép được sản xuất là dành cho xuất khẩu. Rủi ro về thuế quan của Hoa Kỳ là một tác động cực kỳ lớn khi chúng ta xuất khẩu vào Hoa Kỳ chiếm tới 40%.

Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục XTTM ,chủ trì hội nghị giao ban.
Bên cạnh đó, thách thức do phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ phía Trung Quốc, nhất là nguyên liệu thô. Theo bà Xuân, hiện nay tỷ lệ nội địa hóa của ngành da giày đã chiếm được khoảng 55% và riêng giày chúng ta cũng đã chiếm được tới 70-80%. Nhưng nguyên liệu thô chúng ta vẫn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, đòi hỏi cần phải có chiến lược trong các giai đoạn tiếp theo.
Tiếp đó là thách thức chi phí lao động đang ngày càng tăng cao. Đối với những ngành thâm dụng lao động như da giày, dệt may thì chi phí lao động sẽ chiếm khoảng 25% trong chi phí giá thành. Nếu chi phí này tăng lên đến 30% thì chúng ta mất lợi thế và sẽ có sự dịch chuyển sang các quốc gia khác có chi phí tốt hơn.
Hàng rào phi thuế quan ngày càng nhiều và nghiêm ngặt làm tăng chi phí và yêu cầu chặt chẽ tính tuân thủ của doanh nghiệp: sản xuất xanh và tuần hoàn, giảm CO2, CBAM từ EU… Rủi ro về chuỗi cung ứng và hậu cần.

Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas)
"Năm 2024 ngành dệt may Việt Nam đã xuất khẩu gần 44 tỷ USD, trong đó xuất sang Hoa Kỳ 16,6 tỷ USD, chiếm 38,2%; CPTPP trên 7 tỷ USD chiếm 16,25%; Nhật Bản chiếm 10,5%; Canada chiếm 2,8%; Trung Quốc 8,3%; Hàn Quốc 8,5%; Anh 1,8%; Nga chiếm 1,75%.
Thị trường Trung Đông được đánh giá khá tiềm năng, nhưng dệt may Việt Nam chưa khai thác được nhiều, mới chỉ chưa đến 1%; châu Phi mới khai thác được 0,34%.
Cũng như ngành da giày, dệt may cũng phải đối mặt với môi trường biến động (dịch bệnh, xung đột địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ…); thay đổi chiến lược dệt may từ "thời trang nhanh" sang "thời trang bền vững"".
Hiện nay, trong 5 châu lục thì thị trường Bắc Mỹ, giày dép và túi xách Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn nhất đến 14%; tiếp đến là thị trường châu Âu 7%; thị trường châu Á 6%; thị trường châu Phi 2%; thị trường châu Úc 10 -13%. Đây là những thị trường có nhu cầu nhập khẩu rất lớn. Một số thị trường trong các châu lục này dù có nhiều tiềm năng nhưng việc tiếp cận còn khiêm tốn, như Trung Quốc, Asean…
Cùng quan điểm, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas), cho biết năm 2024 ngành dệt may Việt Nam đã xuất khẩu gần 44 tỷ USD, trong đó xuất sang Hoa Kỳ 16,6 tỷ USD, chiếm 38,2%; CPTPP trên 7 tỷ USD chiếm 16,25%; Nhật Bản chiếm 10,5%; Canada chiếm 2,8%; Trung Quốc 8,3%; Hàn Quốc 8,5%; Anh 1,8%; Nga chiếm 1,75%.
Thị trường Trung Đông được đánh giá khá tiềm năng, nhưng dệt may Việt Nam chưa khai thác được nhiều, mới chỉ chưa đến 1%; châu Phi mới khai thác được 0,34%.
Cũng như ngành da giày, dệt may cũng phải đối mặt với môi trường biến động (dịch bệnh, xung đột địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ…); thay đổi chiến lược dệt may từ "thời trang nhanh" sang "thời trang bền vững". Bên cạnh đó, các chuỗi cung ứng dệt may phải được truy soát về tiêu chuẩn lao động và môi trường: Đạo luật chống lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ của Hoa Kỳ, Đạo luật tra soát chuỗi cung ứng của Đức, Chỉ thị của EU về trách nhiệm của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, lộ trình giảm phát thải khí nhà kính của nhãn hàng… Chương trình cam kết giảm phát thải khí nhà kính của các nhãn hàng.
Ngoài ra là những thách thức từ yêu cầu trong nước. Áp lực thực hiện lộ trình cam kết của Việt Nam tại COP 26 về Net Zero vào năm 2050; nhu cầu nhân lực và vốn rất lớn cho sản xuất nguyên phụ liệu, chuyển đổi kép, kinh tế tuần hoàn; yêu cầu tự chủ nguồn nguyên phụ liệu để tận dụng ưu đãi thuế của các FTAs…
DOANH NGHIỆP RẤT CẦN THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG TỪ CÁC THƯƠNG VỤ
Tại hội nghị, đại diện Vitas và Lefaso nhấn mạnh doanh nghiệp trong ngành rất cần thông tin các thị trường từ các cơ quan thương vụ. Theo bà Xuân, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu trong bối cảnh hiện nay là vấn đề quan trọng để duy trì đà xuất khẩu, trong đó khai thác các thị trường FTA là giải pháp hiệu quả lâu dài.
Do đó, các cơ quan Thương vụ hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu thị trường chuyên sâu nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu xuất khẩu và giúp kết nối các khách hàng tiềm năng. "Vì nếu không hiểu thị trường mà doanh nghiệp đi xúc tiến thương mại thì kết quả mang lại không như mong muốn", bà Xuân nhận định.

Bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Lefaso
"Các thương vụ có thể hỗ trợ mời các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực nghiên cứu xu hướng thời trang, thị hiếu tiêu dùng và chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế, phát triển mẫu tầm cỡ quốc tế vào Việt Nam để đào tạo, tư vấn. Đặc biệt, cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế tại Việt Nam, như hội nghị, giao thương, xúc tiến đoàn vào mua hàng…
Mặt khác, thương vụ giúp thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút nhà đầu tư sản xuất, nhà phân phối nguyên phụ liệu nước ngoài vào đầu tư sản xuất và xây dựng các chuỗi, các kênh phân phối nguyên phụ liệu nhằm đa dạng hóa nguồn cung và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành hàng tại Việt Nam".
Ngoài ra, ngành da giày rất cần hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực marketing và thiết kế sản phẩm. Nếu không có hai kỹ năng này thì xúc tiến thất bại và không chuyển được từ phương thức gia công sang làm chủ được thị trường, cũng như không xây dựng được thương hiệu.
Bà Xuân kiến nghị các thương vụ có thể hỗ trợ mời các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực nghiên cứu xu hướng thời trang, thị hiếu tiêu dùng và chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế, phát triển mẫu tầm cỡ quốc tế vào Việt Nam để đào tạo, tư vấn. Đặc biệt, cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế tại Việt Nam, như hội nghị, giao thương, xúc tiến đoàn vào mua hàng…
Mặt khác, thương vụ giúp thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút nhà đầu tư sản xuất, nhà phân phối nguyên phụ liệu nước ngoài vào đầu tư sản xuất và xây dựng các chuỗi, các kênh phân phối nguyên phụ liệu nhằm đa dạng hóa nguồn cung và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành hàng tại Việt Nam.
Với ngành dệt may, ông Cẩm kiến nghị Bộ Công Thương đàm phán để không tăng thuế hoặc mức thuế doanh nghiệp có thể chấp nhận, giữ được thị trường Hoa Kỳ. Thúc đẩy nhanh đàm phán FTA ASEAN – Canada nhằm giảm công đoạn xuất xứ cho dệt may, đàm phán nới ngưỡng với EAEU.
Hỗ trợ triển khai các khu công nghiệp thu hút dệt, nhuộm theo Quyết định số 1643/QĐ-TTg về Chiến lược dệt may và da giày; đặc biệt triển khai các khu công nghiệp dệt may lớn thu hút đầu tư vào sản xuất vải, nguyên phụ liệu để tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Với các cơ quan thương vụ ở nước ngoài, ông Cẩm đề xuất đối với các thị trường xuất khẩu lớn của dệt may, đặc biệt Hoa Kỳ, doanh nghiệp rất cần có cập nhật, chia sẻ thông tin liên quan đến thuế của Hoa Kỳ để có biện pháp ứng phó. Hay thông tin về các quy định mới, xu hướng tiêu dùng, khả năng chấp nhận giá cao hơn cho sản phẩm xanh, bền vững....
Các thị trường có FTA với Việt Nam như Mexico, Peru, Chile... doanh nghiệp muốn được hỗ trợ thông tin để khai thác tốt. Thị trường tiềm năng đông lao động Braxin, Ấn Độ... doanh nghiệp cũng mong muốn có thông tin về khả năng khai thác, giá cả, thị hiếu, văn hóa tiêu dùng....
Về các đối thủ cạnh tranh như: Banglades; Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia... doanh nghiệp đang thiếu thông tin về những lợi thế của họ, về hỗ trợ của nhà nước, chính sách thuế, hải quan, thu nhập người lao động.
“Doanh nghiệp có nhu cầu đa dạng nguồn nhập khẩu nguyên vật liệu, nên rất cần thông tin từ các thương vụ về khả năng cung cấp, giá cả, chi phí logistics, tính ổn định chất lượng và phong phú về mặt hàng... của những thị trường có khả năng cung ứng”, ông Cẩm kiến nghị.