Tổng Bí thư Lê Duẩn - Người Cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta

Cuộc đời của đồng chí Lê Duẩn là một tấm gương chói ngời về phấn đấu hy sinh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho lý tưởng cộng sản. Gần 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

1. Quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Duẩn trước khi làm Tổng Bí thư

Đồng chí Lê Duẩn sinh ngày 7-4-1907 tại thôn Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình lao động có truyền thống yêu nước, đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, tham gia Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1928 và năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu của Đảng ta.

Năm 1931, đồng chí tham gia và là Ủy viên Ban Tuyên huấn của Xứ ủy Bắc Kỳ (do đồng chí Trịnh Đình Cửu phụ trách), ngày 20-4-1931, do bị phản bội[1] đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Hải phòng, bị kết án 20 năm tù cầm cố và lần lượt bị giam ở các nhà lao Hà Nội, Sơn La và Côn Đảo. Tại các nhà tù này, đồng chí cùng nhiều đảng viên cộng sản lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ giam cầm hà khắc và tổ chức việc học tập chính trị.

Năm 1936, do cuộc đấu tranh của nhân dân ta và thắng lợi của Mặt trận nhân dân ở Pháp, chính quyền thực dân ở Đông Dương buộc “ân xá” cho nhiều tù chính trị cộng sản, trong đó có đồng chí Lê Duẩn. Ra khỏi nhà tù, đồng chí ra sức hoạt động cách mạng ở các tỉnh miền Trung, thực thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương nhằm động viên, tập hợp quần chúng đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh.

 Tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1986).

Tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1986).

Tháng 4-1938, theo quyết định của Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương (tháng 3-1938), Xứ ủy Trung Kỳ được lập lại do đồng chí Nguyễn Chí Diểu làm Bí thư. Cuối năm 1938, đồng chí Nguyễn Chí Diểu lâm bệnh nặng rồi mất[2], đồng chí Lê Duẩn được cử làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ[3]. Hoạt động tích cực của đồng chí Lê Duẩn góp phần quan trọng đưa tới cao trào đấu tranh sôi nổi trong cả nước.

Năm 1939, đồng chí Lê Duẩn được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và cuối năm đó đã cùng đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng, chủ trì Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng[4]. Tại hội nghị này, Đảng quyết định thành lập Mặt trận phản đế Đông Dương thay Mặt trận Dân chủ Đông Dương, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ mới.

Rạng sáng ngày 17-1-1940, đồng chí Lê Duẩn và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ bị mật thám bắt tại số nhà 312 đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là đường Trần Đình Xu - Thành phố Hồ Chí Minh). Đồng chí bị kết án 5 năm tù giam, 10 năm quản thúc[5] và bị đày đi Côn đảo lần thứ hai cho đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền, tham gia cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.

Năm 1946, ra Hà Nội, đồng chí Lê Duẩn làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần cùng Trung ương Đảng chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuối năm 1946, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cử vào lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Từ năm 1946 đến năm 1954, với cương vị Bí thư Xứ ủy, rồi Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí đã lãnh đạo Đảng bộ miền Nam tổ chức cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và tiến hành cải cách ruộng đất trong các vùng giải phóng.

Từ năm 1954 đến năm 1957, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đồng chí Lê Duẩn ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào cách mạng. Trong những năm tháng vô cùng khó khăn này, đồng chí đã sống trong lòng nhân dân, được quần chúng bảo vệ, từ những vùng nông thôn hẻo lánh đến trung tâm các thành phố để củng cố các cơ sở cách mạng, chuẩn bị cuộc chiến đấu chống Mỹ. Cũng trong thời gian này, đồng chí đã hoàn thành bản “Đề cương cách mạng miền Nam”[6]. Được đồng chí Lê Duẩn Bí thư Xứ ủy Nam Bộ chuẩn bị trong nhiều năm, nhất là vào cuối năm 1955 ở Cà Mau và Bến Tre; cuối cùng được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành năm 1956 ở Sài Gòn[7]. Bản Đề cương cách mạng miền Nam, đề ra phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam trong giai đoạn tiếp theo: “Để chống lại Mỹ - Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình, là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con đường nào khác”[8].

Năm 1957, Trung ương Đảng cử đồng chí Lê Duẩn lãnh đạo công việc chung của Đảng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Lê Duẩn đã đọc Báo cáo chính trị, trong đó nêu ra hai chiến lược cách mạng: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[9]. Tại Đại hội này, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, được bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư (Bí thư thứ nhất).

2. Trên cương vị Tổng Bí thư chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Bí thư thứ nhất của Đảng ở vào một thời điểm lịch sử đầy thử thách, cam go và nặng nề, cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, đương đầu với một đế quốc có tiềm lực quân sự và bộ máy chiến tranh khổng lồ, đồng chí Lê Duẩn là người chịu trách nhiệm chủ yếu trước Trung ương Đảng về phong trào cách mạng miền Nam.

Suốt 15 năm trên cương vị Tổng Bí thư (1960-1975), trong hoàn cảnh đất nước nhiều khó khăn, thách thức như vậy, đồng chí Lê Duẩn đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng kiên định đường lối độc lập, tự chủ, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, lãnh đạo quân đội và nhân dân ta đánh thắng đế quốc thực dân kiểu mới Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành vẻ vang cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam, từ đây non sông liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đường lối đấu tranh giải phóng miền Nam (năm 1959). Ảnh tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định đường lối đấu tranh giải phóng miền Nam (năm 1959). Ảnh tư liệu

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) và lần thứ V (năm 1982), đồng chí Lê Duẩn lại tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư. Đồng chí Lê Duẩn đã cùng Ban Chấp hành Trung ương đề ra và lãnh đạo thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời định ra chiến lược kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trong cuộc đời cách mạng gần 60 năm của mình, đồng chí Lê Duẩn đã tham gia hoạt động ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc, trải qua mọi thử thách gian nan; được Đảng, Nhà nước tin tưởng và giao phó nhiều trọng trách: Bí thư Xứ ủy, Bí thư Trung ương Cục miền Nam và gần 26 năm liên tục trên cương vị Bí thư thứ nhất và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Lê Duẩn đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Sự sáng suốt của đồng chí thể hiện nổi bật trước bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp”[10]. Dù ở bất cứ cương vị nào, đồng chí cũng hết lòng tận tụy vì Đảng, vì Dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Đồng chí Lê Duẩn là học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, lỗi lạc của Đảng và một nhà lý luận sáng tạo, phong phú, với những đức tính quý báu, giàu lòng nhân ái, giản dị và khiêm tốn. Trong hoạt động quốc tế, đồng chí đã góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng, củng cố tình đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện và tình hữu nghị anh em giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước anh em xã hội chủ nghĩa khác.

Đánh giá công lao to lớn của đồng chí Lê Duẩn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết: “Cống hiến to lớn và tư duy sáng tạo nhất của đồng chí Lê Duẩn được thể hiện sáng ngời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng chí đã cùng với tập thể Bộ Chính trị đưa ra các quyết sách đối nội, đối ngoại, những chủ trương được triển khai hiệu quả cả trên chiến trường, hậu phương và trên bàn đàm phán. Phát huy vai trò nổi bật của người đứng đầu trước bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp, đồng chí đã tập hợp được trí tuệ sáng suốt của tập thể Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, xây dựng nên đường lối cách mạng sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng ta; quy tụ toàn Đảng, toàn dân tộc thành một khối vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa”[11]. Thời thế tạo nên anh hùng, có thể khẳng định rằng: “đồng chí Lê Duẩn là con người của lịch sử, ở những bước ngoặt vĩ đại” của lịch sử dân tộc ta.

NGUYỄN VĂN BIỂU, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

[1] Nghiêm Thượng Biền, Quyền Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ bị bắt. Không chịu được đòn, Biền đã khai báo tất cả những đầu mối liên lạc do mình phụ trách và biết rõ. Chiều ngày 20-4-1931, Sở Mật thám Pháp ở Hà Nội cho hai tên cẩm cáo già là Dugiôn và Rinê chỉ huy hai xe chở đầy cảnh sát và mật thám về Hải Phòng phối hợp với lực lượng tại chỗ lùng sục. Cuộc vây ráp kéo dài đến nửa đêm. Bảy cơ quan của Trung ương và Xứ ủy tan vỡ, 36 đồng chí bị sa vào tay giặc. Đồng chí Lê Duẩn cùng với các đồng chí trong Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ như: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Thị Lệ, Triệu Thị Đỉnh, bị bắt tại ngôi nhà số 8 ngõ Quảng Lạc.

[2] Ngày 15-9-1939, đồng chí Nguyễn Chí Diểu mất sau nhiều tháng nằm trên giường bệnh. Cụ Phan Bội Châu đã đồng ý mai táng đồng chí Diểu ngay tại nghĩa địa của mình. Sau đó, trong nghĩa trang này còn đón nhận nhiều đồng chí khác…

[3] Trần Trọng Thơ, Xây dựng cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy của Đảng thời kỳ 1930-1945, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.153. Theo Biên niên sự kiện lịch sử (tập 1), của Viện Lịch sử Đảng viết “Tháng 3/1938, Xứ ủy Trung Kỳ được tái lập, đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư”.

[4] Viện Lịch sử Đảng, Biên niên sự kiện lịch sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr.347.

[5] Trần Giang, Trần Văn Giàu, Nam Kỳ khởi nghĩa: 23 tháng mười Một năm 1940, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.60.

[6] Tên gọi đầy đủ ban đầu là “Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam” gọi tắt là “Đề cương cách mạng miền Nam”.

[7] Tại nhà số 29, đường Huỳnh Khương Ninh, phường Đa Kao, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.785.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.502.

[10] Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại lễ truy điệu đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn do đồng chí Trường Chinh đọc, ngày 15 tháng 7 năm 1986, dẫn theo: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.155.

[11] Nguyễn Phú Trọng, Lời tựa, in trong sách: Lê Duẩn - một tư duy sáng tạo lớn, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.8.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/tong-bi-thu-le-duan-nguoi-cong-san-kien-cuong-nha-lanh-dao-xuat-sac-cua-dang-ta-813532
Zalo