Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng - Tổng Bí thư thời kỳ đầu đổi mới

Đồng chí Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc, còn hay được gọi là Mười Cúc. Xuất thân trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ cách mạng, thấu hiểu cảnh đau khổ của đất nước lầm than, nô lệ do chế độ thực dân cai trị, mới 14 tuổi, đồng chí đã tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh Đoàn, do Hội Việt Nam cách mạng thanh niên lãnh đạo.

Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, muốn được cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, lại được tư tưởng Nguyễn Ái Quốc dẫn đường, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tích cực, hăng hái hoạt động không sợ hy sinh, không nề gian khổ.

1. Quá trình hoạt động cách mạng trước năm 1975

Đồng chí Nguyễn Văn Linh (1915-1998) tại làng Bần nay là thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1929, đồng chí đã tham gia Học sinh đoàn tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên lãnh đạo. Ngày 1-5-1930, lúc mới 15 tuổi, đồng chí Nguyễn Văn Linh được tổ chức Học sinh Đoàn của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phái đi rải truyền đơn, mà sau này đồng chí Nguyễn Văn Linh kể lại rằng: Chúng tôi rải truyền đơn dọc theo phố Cát Dài (Hải Phòng)… khi rải tới ngã tư, cảnh binh phát hiện thấy và bắt cả ba chúng tôi… tôi đi tù[1] và bị đày ra Côn Đảo[2].

 Đồng chí Nguyễn Văn Linh sau khi ra tù Côn Đảo (1946).

Đồng chí Nguyễn Văn Linh sau khi ra tù Côn Đảo (1946).

Tháng 9-1936, đồng chí Nguyễn Văn Cúc (tức Nguyễn Văn Linh) mới ở Côn Đảo ra, được Trung ương cử về Hải Phòng nắm tình hình, tham gia xây dựng tổ chức Đảng và phong trào cách mạng. Từ đó cho đến đầu năm 1937, hệ thống tổ chức cơ sở Đảng và cơ sở cách mạng tiếp tục được củng cố. Đồng chí đã xây dựng cơ sở đảng, thành lập nhiều chi bộ và Thành ủy lâm thời Hải Phòng.

Khoảng cuối năm 1938, đầu năm 1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và Trung ương điều động đồng chí Nguyễn Văn Linh vào Sài Gòn hoạt động và tham gia Thành ủy Sài Gòn. Khi ấy đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đang làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn, “tôi (tức Nguyễn Văn Linh) vào làm Phó bí thư Thành ủy”[3].

Đồng chí Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh), Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1947-1948, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1950 - 1952.

Đồng chí Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh), Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1947-1948, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1950 - 1952.

Cuối năm 1939, được phân công tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kỳ. Đầu năm 1941, đồng chí Nguyễn Văn Linh bị thực dân Pháp bắt ở Vinh, chúng đưa đồng chí về Sài Gòn xử án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ hai. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được đón về Nam Bộ hoạt động ở miền Tây.

Hội nghị Xứ ủy (mở rộng) tháng 11-1946, họp tại kinh Năm Ngàn trong chiến khu Đồng Tháp Mười. Xứ ủy lâm thời Nam Bộ gồm các đồng chí: Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Cúc (Nguyễn Văn Linh), Trần Văn Trà, Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Văn Kỉnh, Hoàng Dư Khương, Nguyễn Văn Tiếp; do đồng chí Phạm Hùng làm Bí thư. Hội nghị ra Nghị quyết củng cố các Liên Tỉnh ủy miền Đông, miền Trung, miền Tây Nam Bộ. Đồng chí Nguyễn Văn Cúc được phân công về phụ trách thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn[4], trực tiếp lãnh đạo kháng chiến với các chức vụ Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định vào giữa năm 1947[5].

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, thời kỳ 1965-1966.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, thời kỳ 1965-1966.

Tháng 12-1947, đồng chí Nguyễn Văn Cúc được bầu vào Xứ ủy Nam Bộ, do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ ủy. Từ năm 1949, đồng chí tham gia Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ. Sau khi đồng chí Lê Duẩn ra Bắc (cuối tháng 4 - đầu tháng 5-1957), đồng chí Phạm Hữu Lầu thay làm Quyền Bí thư Xứ ủy. Cuối năm 1957, đồng chí Nguyễn Văn Linh về làm Quyền Bí thư Xứ ủy[6] đến năm 1960.

Ngày 27-3-1960, để chuẩn bị cho Hội nghị thành lập Trung ương Cục miền Nam, Trung ương Đảng quyết định nhân sự của Trung ương Cục miền Nam gồm: Đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm Bí thư, Phan Văn Đáng làm Phó bí thư, Võ Chí Công (Toàn), Phó bí thư[7]. Tháng 9-1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Ban quân sự Miền được thành lập (1961) để chỉ huy các lực lượng vũ trang miền Nam. Đến tháng 10-1963, Ban quân sự Miền được thay bằng Bộ Chỉ huy Miền, do Trung tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh. Quân ủy Miền do Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Văn Linh làm Bí thư.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng Đoàn cán bộ Trung ương Cục miền Nam vượt Trường Sơn ra Hà Nội họp, tháng 3-1973.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng Đoàn cán bộ Trung ương Cục miền Nam vượt Trường Sơn ra Hà Nội họp, tháng 3-1973.

Ngày 4-11-1967, tại Hội nghị toàn thể Trung ương Cục miền Nam theo Quyết nghị của Bộ Chính trị về chuẩn bị Tổng công kích, tổng khởi nghĩa và củng cố các tổ chức lãnh đạo, chỉ huy ở chiến trường B2, đồng chí Phạm Hùng được giao nhiệm vụ Bí thư Trung ương Cục, Bí thư Quân ủy Miền (thay Đại tướng Nguyễn Chí Thanh từ trần tại Hà Nội tháng 6-1967). Các Phó bí thư Trung ương Cục gồm có đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Phan Văn Đáng, Hoàng Văn Thái; Bộ Chỉ huy Quân ủy Miền do đồng chí Phạm Hùng làm Bí thư; Phó bí thư là đồng chí Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái[8].

Ngày 1-8-1969, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam, vừa từ chiến trường ra báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương về các “chiến dịch bình định cấp tốc” mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang xúc tiến trên toàn chiến trường miền Nam. Dù đang ốm mệt, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng chí Nguyễn Văn Linh rằng: “Bất cứ trong tình huống nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa vào dân để mà tồn tại. Đó là cái chìa khóa của mọi thắng lợi”[9].

Đồng chí Nguyễn Văn Linh đi thị sát tình hình trên sông Vàm Cỏ Đông, năm 1974.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh đi thị sát tình hình trên sông Vàm Cỏ Đông, năm 1974.

Sau Hội nghị Bình Giã V (tháng 1-1972), đến tháng 4-1972, tổ chức bộ máy của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định được củng cố và bổ sung thêm một số Thành ủy viên và do đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó bí thư Trung ương Cục trực tiếp phụ trách làm Bí thư (đến tháng 10-1972), Phó bí thư Thành ủy là đồng chí Mai Chí Thọ[10]. Trên cương vị Bí thư và Phó bí thư Trung ương Cục, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo quân và dân miền Nam làm cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ, cứu nước từ những năm tháng đen tối đến ngày toàn thắng trong mùa xuân lịch sử năm 1975.

2. Cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Linh sau năm 1975

Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng và Tổ quốc Việt Nam được thống nhất (1975), đồng chí Nguyễn Văn Linh được phân công trở lại làm Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Tháng 12-1976, tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư, được phân công giữ các chức vụ: Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh của Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam đến năm 1980. Sau đó, được phân công theo dõi thực hiện Nghị quyết của Đảng và Chính phủ ở các tỉnh miền Nam.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam, ngày mồng 5 Tết Ất Mão (1975).

Đồng chí Nguyễn Văn Linh tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam, ngày mồng 5 Tết Ất Mão (1975).

Tháng 12-1981, đồng chí Nguyễn Văn Linh lại được Trung ương quyết định vào làm Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Tháng 3-1982, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 6-1985, tại Hội nghị Trung ương 8, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị.

Tháng 6-1986, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, và được phân công Thường trực Ban Bí thư. Tháng 12-1986, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng… Do có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, đồng chí được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 12-1986.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 12-1986.

Suốt cuộc đời đồng chí Nguyễn Văn Linh đã trải qua gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục và đã được Đảng, Nhà nước giao phó nhiều trọng trách. Đồng chí đã tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kỳ, giữ các chức vụ Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, Bí thư Đặc Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, Ủy viên Thường vụ rồi quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Trung ương Đảng, khóa III, Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IV, Ủy viên Bộ Chính trị khóa V, Trưởng ban cải tạo xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Dân vận - Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, Thường trực Ban Bí thư… Đến Đại hội VI của Đảng, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng và Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Tại Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng, đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

 Đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng vợ và các cháu, tháng 7-1992.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh cùng vợ và các cháu, tháng 7-1992.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã hoạt động trong nhiều vùng, ở nhiều địa phương của đất nước, để lại những kỷ niệm sâu sắc trong lòng đồng chí, đồng bào ta trên mọi miền Tổ quốc: “… hơn một nửa cuộc đời hoạt động cách mạng của mình gắn bó máu thịt với miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”[11].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị là Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí đã lãnh đạo phong trào cách mạng miền Nam vào thời điểm gay go nhất và cũng oanh liệt nhất, ghi lại những dấu ấn không bao giờ phai mờ về cuộc “đồng khởi” và cuộc kháng chiến chống xâm lược từ năm 1960 đến năm 1975. Khi kháng chiến ở trong rừng già, bưng biền cũng như khi ở trong căn cứ nội thành, đồng chí luôn kiên cường “bám trụ”, sát cánh cùng đồng bào, chiến sĩ, tin tưởng tuyệt đối vào dân, vừa lãnh đạo chiến đấu, vừa bền bỉ xây dựng, phát triển phong trào yêu nước và lực lượng cách mạng… Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc thuộc về toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, trong đó có công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh.

 Đồng chí Nguyễn Văn Linh (1915-1998), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VI (từ tháng 12 năm 1986 đến tháng 6 năm 1991).

Đồng chí Nguyễn Văn Linh (1915-1998), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VI (từ tháng 12 năm 1986 đến tháng 6 năm 1991).

Ở trong lao tù của đế quốc - “nơi địa ngục trần gian”, đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn giữ vững khí tiết người cộng sản, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Đồng chí đã trải qua 2 lần với hơn 10 năm bị gông cùm trong ngục tù của thực dân ở Côn Đảo. Khi mới vào tù tuổi đời còn rất trẻ (15 tuổi), dù bị kẻ thù tra tấn dã man, tàn bạo, đồng chí vẫn một mực kiên trung, tin tưởng vào lý tưởng cao quý của Đảng và tương lai tươi sáng của dân tộc ta.

Đại hội “đổi mới” (Đại hội VI của Đảng năm 1986) mở đầu công cuộc đổi mới, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Với cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã lãnh đạo nhạy bén, chủ động, sáng tạo, khôn khéo chèo lái con thuyền cách mạng, vượt qua những bước hiểm nghèo của thời kỳ xảy ra những biến động to lớn trên thế giới, đẩy mạnh công cuộc đổi mới và thu được những thành tựu rất quan trọng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế… Gần tròn bảy thập kỷ, từ buổi đầu tiên tham gia cách mạng (1930), đến khi vĩnh biệt đồng bào cả nước, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã giữ trọn danh hiệu cao quý của người đảng viên cộng sản kiên trung, một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hy sinh cao cả vì lý tưởng cao đẹp của Đảng.

NGUYỄN VĂN BIỂU, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

[1] Đồng chí Nguyễn Văn Linh cộng hai lần kết án thành tù chung thân.

[2] Nguyễn Văn Linh, Nơi ấy, tôi đã trưởng thành (hồi ký), in trong: Nguyễn Văn Linh - Hành trình cùng lịch sử, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2015, tr.18-19.

[3] Nguyễn Văn Linh, Nơi ấy, tôi đã trưởng thành (hồi ký), Sđd, tr.22.

[4] Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập I (1945-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.278.

[5] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1930 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.384-387.

6] Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, tập I (1945-1954), Sđd, tr.127.

[7] Các Ủy viên gồm: Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt, Trần Lương, Nguyễn Đôn. Viện Lịch sử Đảng, Biên niên sự kiện Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.481.

[8] Bộ Quốc phòng, Quân khu 7, Lịch sử Bộ chỉ huy Miền 1961-1976, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.287.

[9] Nguyễn Văn Linh, Nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo (hồi ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.171.

[10] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1975), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.840.

[11] Điếu văn do đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Văn Linh ngày 29-4-1998.

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/dong-chi-nguyen-van-linh-nha-lanh-dao-xuat-sac-cua-dang-tong-bi-thu-thoi-ky-dau-doi-moi-813762
Zalo