Tín dụng nông thôn: Có thể vay tối đa 3 tỷ đồng không tài sản bảo đảm
Mức cho vay tín dụng nông thôn không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình sẽ được thay đổi, dự kiến cao nhất là 3 tỷ đồng.
Thay đổi để phù hợp với nhu cầu vốn của khách hàng
Tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 116/2018/NĐ-CP được Ngân hàng Nhà nước lấy ý kiến, mức cho vay tín dụng nông thôn không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình sẽ được thay đổi, dự kiến cao nhất là 3 tỷ đồng.
Cụ thể, sửa đổi về mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chủ trang trại tại khoản 2 Điều 9, dự thảo của Ngân hàng Nhà nước đề xuất cơ chế bảo đảm tiền vay như sau:
Tối đa 300 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình; tối đa 500 triệu đồng đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh; tối đa 3 tỷ đồng đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chủ trang trại.
Theo Ngân hàng Nhà nước, trên cơ sở kết quả khảo sát, làm việc thực tế tại một số địa phương trong quá trình tổng kết chính sách, cơ quan này thấy cần thiết phải có sự thay đổi về hạn mức vay không có tài sản bảo đảm để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của từng đối tượng khách hàng.
![Ngân hàng Nhà nước thấy cần thiết phải có sự thay đổi về hạn mức vay không có tài sản bảo đảm để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của từng đối tượng khách hàng. Ảnh: Agribank](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_12_35_51459679/e04c857fb2315b6f0220.jpg)
Ngân hàng Nhà nước thấy cần thiết phải có sự thay đổi về hạn mức vay không có tài sản bảo đảm để phù hợp với nhu cầu vốn phục vụ sản xuất nông nghiệp của từng đối tượng khách hàng. Ảnh: Agribank
Với đề xuất mới này, mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 9 được tăng từ mức 100 - 200 triệu đồng lên mức 300 triệu đồng; tổ hợp tác và hộ kinh doanh tại điểm d được tăng từ mức 300 triệu đồng lên mức 500 triệu đồng (bằng với mức tại điểm đ); hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chủ trang trại tại các điểm e, g được tăng từ mức 1 - 3 tỷ đồng lên mức 3 tỷ đồng (bằng với mức tại điểm h).
Quy định rõ về nguyên nhân khách quan, bất khả kháng
Một nội dung khác cũng được đề cập trong dự thảo Nghị định sửa đổi là liên quan tới quy định về nguyên nhân khách quan, bất khả kháng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đề xuất sửa đổi khoản 12 Điều 3 Nghị định số 55/2015/NĐ-CP quy định về nguyên nhân khách quan, bất khả kháng bao gồm: Các nguyên nhân xảy ra làm thiệt hại đến vốn, tài sản của dự án hoặc phương án vay vốn: các loại thiên tai theo quy định của pháp luật về phòng, chống thiên tai; các dịch bệnh, dịch hại theo quy định của pháp luật về dịch bệnh, dịch hại; hỏa hoạn;…
Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng: không còn nguồn cung cấp nguyên vật liệu; mặt hàng sản xuất, kinh doanh bị cấm, bị hạn chế theo quy định của pháp luật; khách hàng phải thực hiện việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh theo quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo Ngân hàng Nhà nước, quy định cụ thể nguyên nhân khách quan, bất khả kháng để việc áp dụng chính sách giữ nguyên nhóm nợ đối với các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khoanh nợ theo Nghị định được rõ ràng, dễ thực hiện.
![Mức cho vay tín dụng nông thôn không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình dự kiến cao nhất là 3 tỷ đồng. Ảnh: Duy Minh](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_12_35_51459679/ff9b9ba8ace645b81cf7.jpg)
Mức cho vay tín dụng nông thôn không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình dự kiến cao nhất là 3 tỷ đồng. Ảnh: Duy Minh
Các nguyên nhân này được quy định tương tự như quy định về nguyên nhân khách quan được xem xét xử lý rủi ro theo Quyết định 08/2021/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời đảm bảo phù hợp với đặc thù, điều kiện áp dụng chính sách xử lý rủi ro trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước căn cứ thực tế xử lý các hồ sơ đề nghị khoanh nợ trong thời gian qua như: khoanh nợ do đợt rét đậm, rét hại tháng 1/2016 tại Bắc Kạn; do thiên tai lũ lụt tháng 11/2016 tại Phú Yên; do cơn bão số 12 tháng 11/2017 tại Phú Yên, Khánh Hòa; do thiên tai năm 2020 trên địa bàn tỉnh Lai Châu…, Ngân hàng Nhà nước thấy cần quy định rõ hơn về thời điểm xảy ra thiệt hại, số dư nợ bị thiệt hại, thời điểm bắt đầu khoanh nợ cũng bổ sung quy định về thời điểm xảy ra thiệt hại, số dư nợ bị thiệt hại, thời điểm bắt đầu khoanh nợ. Vì thế, cơ quan này cũng đã bổ sung khoản 14 vào Điều 3 quy định thời điểm xảy ra thiệt hại là ngày đầu tiên trong khoảng thời gian xảy ra nguyên nhân khách quan, bất khả kháng theo quy định tại khoản 12 Điều 3.
Bên cạnh đó, bổ sung khoản 15, 16, 17 vào Điều 3 quy định khái niệm số dư nợ bị thiệt hại của một tài sản, số dư nợ bị thiệt hại của khách hàng vay vốn, văn bản thông báo tình trạng thiên tai, dịch bệnh trên phạm vi rộng của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Thông tin về việc phải sửa đổi và bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đầu tư tín dụng của hệ thống ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ về phát triển khu vực này. Tín dụng cho nông nghiệp nông thôn đã đảm bảo đáp ứng được các nhu cầu sản xuất nông nghiệp từ sản xuất đến thu mua, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đến nhu cầu cho tiêu dùng của người dân tại khu vực nông thôn, góp phần tích cực hỗ trợ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp qua các năm, gia tăng kim ngạch xuất khẩu và nâng cao vị thế trên thị trường thế giới; đồng thời, tạo điều kiện khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ liên quan đến cơ chế chính sách mà nổi bật là về tài sản bảo đảm, mức cho vay; cũng như yêu cầu thực tế đặt ra về mở rộng phạm vi ưu đãi đối với các đối tượng mới trong nông nghiệp như nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn… để phù hợp với xu thế phát triển mới của ngành theo chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, yêu cầu thực tế sửa đổi, bổ sung chính sách để tháo gỡ khó khăn, mở rộng tín dụng phục hồi sản xuất kinh doanh sau cơn bão số 3 (Yagi).
Vì thế, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ nhằm đảm bảo phù hợp với tình hình, nhu cầu vốn cho sản xuất nông nghiệp hiện nay và tiếp tục phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống trong thời gian tới; góp phần triển khai các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ổn định đời sống, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh sau thiên tai.
Mức cho vay không có tài sản bảo đảm dự kiến được cho vay tối đa 300 triệu đồng đối với cá nhân, hộ gia đình; tối đa 500 triệu đồng đối với tổ hợp tác và hộ kinh doanh; tối đa 3 tỷ đồng đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chủ trang trại.