Thời cơ 'chín muồi' để phát triển nội lực nền kinh tế - Bài 2: Doanh nghiệp Việt cần chủ động bứt phá, gắn kết
Không ít chuyên gia từng đề cập về vấn đề xuất khẩu (XK) hiện nay phụ thuộc quá lớn vào doanh nghiệp (DN) đầu tư nước ngoài (FDI). Vấn đề này cũng được các tổ chức quốc tế, các định chế tài chính quốc tế nhận diện. Vậy để giảm dần phụ thuộc vào FDI, chúng ta cần làm gì?

Cần xây dựng thêm nhiều doanh nghiệp lớn, tiên phong ở Việt Nam. (Ảnh minh họa)
Loạt câu hỏi về “hậu FDI”
Thực tế, sau nhiều năm là điểm sáng thu hút FDI, năm 2024, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/12/2024 (bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài) đạt 38,23 tỷ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù vậy, năm 2024 vẫn được coi là năm thành công trong thu hút FDI bởi tổng số vốn FDI thực hiện tại Việt Nam tăng mạnh, ước đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm trước.

“Thông thường, các nhà đầu tư FDI đều khai thác trong nhiều năm liên tục, đến khi họ thấy không còn hiệu quả nữa, do chi phí nhân công có xu hướng tăng cao, do máy móc, thiết bị cũ đi, hàng hóa làm ra mất dần ưu thế cạnh tranh thì họ sẽ rời đi. Lúc bấy giờ mình sẽ làm gì”?
- PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đặt câu hỏi.
PGS.TS, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh đặt vấn đề, FDI hiện đang đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Theo đó, khoảng 70% hàng XK từ Việt Nam đều là hàng hóa của các DN FDI. “Thông thường các nhà đầu tư FDI đều khai thác trong nhiều năm liên tục, đến khi họ thấy không còn hiệu quả nữa, do chi phí nhân công có xu hướng tăng cao, do máy móc, thiết bị cũ đi, hàng hóa làm ra mất dần ưu thế cạnh tranh thì họ sẽ rời đi. Lúc bấy giờ mình sẽ làm gì”? - PGS.TS Đinh Trọng Thịnh đặt câu hỏi.
Đây cũng là trăn trở mà bà Phạm Thị Ngọc Thủy - Giám đốc Văn phòng Ban IV (Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân) chia sẻ trong nhiều cuộc trò chuyện. Bà Thủy cho biết, câu chuyện về việc nội lực của kinh tế Việt Nam cũng đã được nhiều lần đề cập trong các cuộc tọa đàm hoặc chia sẻ với các chuyên gia của các tổ chức quốc tế. Bởi thực tế, theo đánh giá, Việt Nam có nhiều mục tiêu nhưng trên thực tiễn nội lực trong nước còn yếu để có thể tự chủ được cuộc chơi. Nhiều chuyên gia cũng từng bày tỏ băn khoăn về chiến lược “hậu FDI” để có thể làm mạnh được nền kinh tế từ nội lực của chính mình.
“Chữ nội lực tôi rất muốn chia sẻ với mọi người, bởi câu hỏi lớn của nhiều chuyên gia đã đặt ra khiến chúng ta cần phải đặt ra bài toán toán trăn trở, rằng, nếu chúng ta không đẩy được nội lực lên bằng sự bứt phá, bằng sự gắn kết lẫn nhau thì nhiều dự đoán về khó khăn khi FDI dịch chuyển hoặc gặp phải các cú sốc như Covid-19 hay là cuộc chơi của thế giới hiện nay khi các quốc gia đang sắp xếp lại cũng sẽ tạo ra thách thức ở trong nước” - bà Thủy nói.
Tự đi trên đôi chân của mình
Theo nhiều chuyên gia, thực tế, các ngành thu hút FDI lớn hiện nay đều là công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, tỷ lệ nội địa hóa của Việt Nam trong các ngành này, đặc biệt là công nghiệp ô tô, công nghệ điện tử đều còn khá thấp và cách xa so với mục tiêu mà chúng ta đã đặt ra. Dù không thể phủ nhận, một số ngành nghề thâm dụng lao động ở Việt Nam như dệt may, da giày đã có những nỗ lực nhất định để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, nâng cao nội lực của ngành trong cuộc chơi với FDI và với toàn cầu.
Bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam cho biết, ngành da giày vẫn được nhận diện gia công là chủ yếu nhưng phương thức gia công hiện nay không đơn giản như các mô hình trước đây, khi Việt Nam mới thu hút các DN FDI. Theo bà Xuân: “Hiện gia công phải nâng cao trình độ lên rất nhiều. Ví dụ, trước đây, trong mối quan hệ với DN FDI, DN Việt thụ động từ mẫu mã đến công nghệ. Nhưng hiện nay, trước thách thức về chi phí sản xuất, nếu chỉ làm đơn giản và thụ động thì chắc chắn sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng”.

“Hiện gia công phải nâng cao trình độ lên rất nhiều. Ví dụ, trước đây, trong mối quan hệ với DN FDI, DN Việt thụ động từ mẫu mã đến công nghệ. Nhưng hiện nay, trước thách thức về chi phí sản xuất, nếu chỉ làm đơn giản và thụ động thì chắc chắn sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng. Phải có công nghệ thì mới có đơn hàng, phải tuân thủ các điều kiện mới trong công cuộc chuyển đổi xu hướng sản xuất theo hướng xanh hóa đang thay đổi trên toàn cầu mới có đơn hàng. Gia công giờ đòi hỏi khắc nghiệt hơn nhưng lại làm cho DN của Việt Nam có khả năng nâng cao nội lực tốt hơn” - bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày Việt Nam.
Đó là những yêu cầu buộc DN Việt phải liên kết chặt chẽ hơn, chủ động hơn về phát triển mẫu mã, thay đổi công nghệ. Thực tế, phải đáp ứng được những yêu cầu về mẫu mã, công nghệ từ phía đối tác mới có đơn đặt hàng nên DN không thể làm gì khác ngoài việc buộc phải thay đổi, phải đầu tư để tạo ra hiệu quả. “Phải có công nghệ thì mới có đơn hàng, phải tuân thủ các điều kiện mới trong công cuộc chuyển đổi xu hướng sản xuất theo hướng xanh hóa đang thay đổi trên toàn cầu mới có đơn hàng. Những đòi hỏi này buộc DN phải thay đổi. Gia công giờ khắc nghiệt hơn nhưng lại làm cho DN của Việt Nam có khả năng nâng cao nội lực tốt hơn” - bà Xuân khẳng định.
Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng khẳng định, nguồn lực của dệt may Việt Nam hiện giờ cũng thay đổi. Nguồn lực này bao gồm nguồn lực cho ngành công nghiệp phát triển thời trang, nguồn lực cho công cuộc chuyển đổi số, quản lý số và nguồn lực cho ngành phát triển công nghệ đối với một số lĩnh vực then chốt của ngành.
“Phát triển thời trang, gia công đơn hàng không còn thuần túy như trước nữa vì chúng ta phải chủ động mẫu mã, tự sáng tạo để chào bán cho khách hàng toàn cầu, đồng thời chủ động cho ngành thời trang trong nước” - ông Giang nói.
Đáng chú ý, trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương thông tin, Viện đã hoàn thành dự thảo đối với 3 chiến lược phát triển ngành thép, sữa và ô tô, đã trình Chính phủ. Khi những chiến lược này được thực thi, các DN có thể hưởng lợi từ các biện pháp hỗ trợ cụ thể được đề xuất trong các chiến lược, từ đó nâng dần nội lực DN Việt.
Đơn cử, tại các đề xuất chiến lược này, các DN ngành thép Việt Nam có thể được khuyến khích tham gia vào các dự án xây dựng lớn của Nhà nước như đường sắt, các công trình xây dựng quy mô lớn… Ngành sữa được hưởng những chính sách ưu đãi nhằm phát triển vùng nguyên liệu; phát triển các mặt hàng sữa có giá trị gia tăng cao như sữa công thức; tham gia các dự án chính phủ về phát triển nâng cao thể chất cho thế hệ trẻ em Việt Nam; Các DN ngành ô tô được khuyến khích phát triển các loại xe tiết kiệm năng lượng, xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh, năng lượng tái tạo…
Cần những doanh nghiệp tiên phong, dẫn dắt
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy khẳng định: “Tôi có niềm tin vào nội lực của chúng ta vì chúng ta có những DN tốt, những cá nhân tốt nên cần phải đặt niềm tin vào chính mình. Tuy nhiên, đi cùng với đó cần phải có những giải pháp cho giai đoạn bứt phá trong thời gian tới đây”.
Trước khi những quyết sách lớn của Chính phủ được thực thi đồng bộ, hiện Ban VI đang có nhiều hoạt động quy tụ khối DN trong nước, với mong muốn có những DN tiên phong, có thể dẫn dắt trong từng ngành, lĩnh vực của mình.
“Chúng tôi vẫn hay thường nói với nhau câu chuyện làm thế nào để có nhiều hơn những DN lớn bởi kể đi kể lại thì cũng vẫn chỉ là một số cái tên quen thuộc xuất hiện trong các cuộc đối thoại với Thủ tướng. Làm thế nào có nhiều hơn những gương mặt như thế luôn là một câu hỏi khó và đặc biệt, khi nhìn vào những số liệu mang tính vĩ mô thì chúng tôi nhận thấy, số lượng DN lớn và vừa, qua nhiều năm gần như không thay đổi. Vì sao vừa mà không thành lớn? Vì sao nhỏ mà không vươn lên thành vừa” - bà Thủy chia sẻ.
Do đó, hiện Ban IV đang “nhận diện” những DN tiên phong. Đó có thể chưa phải là DN lớn, điển hình của ngành, lĩnh vực nhưng họ có khát vọng, có mô hình, đã có những “đường đi nước bước” bước đầu tốt, sáng… Và hy vọng tập hợp được những mạng lưới với những DN tiên phong trong từng lĩnh vực như vậy. Sau đó, tìm nguồn lực để tiếp sức, nuôi dưỡng đội ngũ DN này.
Đáng chú ý, bà Thủy khẳng định, khi đi sâu vào từng ngành, từng lĩnh vực thì Ban IV cũng đã thấy những “địa chỉ đỏ”, là những DN đang cố gắng thử những bước đi đầu tiên bằng chính nguồn lực của họ. Với những DN này Ban IV luôn sẵn sàng cộng hợp và chung tay với họ. Tiếp đó, sẽ là bước thử và tạo câu chuyện điển hình. Từ việc thử và tạo câu chuyện điển hình này thì bắt đầu đã thấy những DN thực sự tiềm năng và có tố chất để tiếp tục các bước tiếp theo, vun sức và chung tay để xây dựng thành những DN tiên phong, điển hình, dẫn dắt trong nước.