Thơ cũng là một loại thời trang

Thơ haiku hình thức thì tối giản nhưng nội dung lại sâu thẳm, bao la. Trọn vẹn một dòng thơ khoảng 17 âm đã đủ khơi gợi những rung cảm và suy ngẫm sâu sắc nơi người đọc.

Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, những hiểu lầm xoay quanh hình thức và nội dung của thơ haiku phát xuất từ việc người đọc không nắm được khác biệt giữa hai ngôn ngữ tiếng Việt - tiếng Nhật, cũng như chưa hiểu được nghệ thuật hình ảnh dùng cái bình thường, dung dị để nói cái sâu thẳm, thiêng liêng của thể thơ "tối giản nhất thế giới" này.

(*) Bài viết thực hiện dựa trên phỏng vấn với Nhật Chiêu. Các bài thơ haiku trong bài viết này sử dụng bản dịch của Nhật Chiêu.

 Sách Ba nghìn thế giới thơm - tác phẩm giới thiệu lịch sử thi ca Nhật Bản của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu. Ảnh: T.A.

Sách Ba nghìn thế giới thơm - tác phẩm giới thiệu lịch sử thi ca Nhật Bản của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu. Ảnh: T.A.

Thơ không chấp vào hình thức

Thơ haiku đã có manh mối, mầm mống phát triển từ vài thế kỷ trước đó. Trước và trong thời Basho (1644-1694), haiku đôi khi vẫn còn nằm trong liên ca - thơ do nhiều người cùng soạn, có thể lên đến nghìn câu. Nhưng đến thế kỷ 17, với thiên tài của Basho - thi sĩ đã làm trên dưới nghìn bài thơ có dáng dấp những bài thơ độc lập, kết lại với dấu chấm hết mà không cần bất kỳ bạn thơ nào viết tiếp - thì haiku chính thức hoàn thiện và trở thành một thể thơ mới.

Từ đó, thơ haiku gần như hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Basho. Mỗi bài thơ thường có khoảng 17 âm tiết, ngắt theo nhịp 5/7/5. Người thời ấy cũng cảm biết được những biến chuyển này trong dòng chảy thơ ca, nhưng vẫn chỉ gọi là hokku (phát cú). Cái tên haiku (hài cú) mới được đặt từ thế kỷ 20 để dễ phân biệt haiku với những thể thơ khác.

Trong văn chương Việt Nam cũng tương tự: tên gọi "lục bát" ra đời rất lâu sau những bài ca dao. Mà ca dao vốn dĩ không phải lúc nào cũng tuân theo chặt chẽ niêm luật lục bát, điển hình như câu Con chim liễu nó biểu con chim quỳnh / Biểu to, biểu nhỏ, biểu mình thương tôi. Lục bát mãi về sau mới dần khuôn vào hình thức chặt chẽ như Truyện Kiều.

Tiếng Nhật là một ngôn ngữ chắp dính (một từ tạo thành từ nhiều âm; khác với tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, đa số các âm đều có thể là một từ có nghĩa) nên 17 âm thường chỉ cấu tạo nên 5-8 từ. Thực chất, số âm tiết của một bài haiku cũng không cố định, không bắt buộc là 17 mà có thể nhiều hơn, ít hơn đôi chút.

Trong nguyên văn tiếng Nhật, thơ haiku chỉ viết trong một dòng, một câu duy nhất, không có qua dòng mới; nhưng thường đọc ngắt âm 5/7/5. Do đó, khi dịch ra tiếng nước ngoài, một bài haiku thường được ngắt thành ba dòng để báo hiệu sự ngắt âm.

Ví dụ:

Cành khô

quạ đậu

chiều thu.

(Basho)

Quan niệm dịch thơ haiku phải đủ 17 âm là không hợp lý, bởi lẽ cách cấu tạo từ và ngữ pháp của mỗi ngôn ngữ là khác nhau. Nếu tuân theo niêm luật về số âm tiết để dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt thì bản dịch sẽ mắc vào lỗi thêm thắt, bày vẽ ra những điều không có sẵn trong ý tứ của tác giả.

Tuy nhiên, dù dịch giả nỗ lực đến đâu, thì mỗi ngôn ngữ đều có những cái không dịch được, do đó đành chấp nhận những "mất mát trong dịch thuật".

Lấy ví dụ bài

Ao cũ

con ếch nhảy vào

vang tiếng nước xao

(Basho)

Vốn (phiên âm) trong tiếng Nhật là:

Furuikeya / kawazu tobikomu / mizu no oto

Trong đó âm "ya" vừa là dấu ngắt vừa có chức năng biểu cảm. Không thể chọn dịch thành "ôi" trong tiếng Việt vì chữ này sắc thái mạnh hơn "ya".

Thơ cũng là một loại thời trang. Cái bình cũ của thơ là nghệ thuật, lúc tự do, lúc không, mỗi giai đoạn lại có một mốt.

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu

Người làm thơ haiku tiếng Việt cũng thường xuống dòng để báo hiệu sự ngắt âm, khiến nhìn haiku tiếng Việt giống với thơ "ba câu". Song vì khác biệt trong tính chất ngôn ngữ, haiku trong tiếng Việt thường không có đủ 17 âm như tiếng Nhật.

Dẫu vậy, thơ ca thì không phải khoa học, không chắc chắn, cứng nhắc, toàn phần tuân theo niêm luật, mà luôn có chỗ cho "cá tính nhà thơ".

Nửa đầu thế kỷ 20, thi sĩ Santoka (bút danh này có nghĩa "lửa đầu núi") đã có những cách tân thơ haiku độc đáo. Ông rút ngắn haiku truyền thống đến cùng cực, bài thơ chỉ còn 5-7 âm, được văn giới hết lời ca ngợi: Cỏ la đà / dưới chân ngựa dẫm / vẫn còn ra hoa.

Vốn dĩ niêm luật trong thơ cũng là một thứ được định hình qua thời gian, còn thơ tự do mới là cái khởi thủy. Thơ ca đi từ tự do rồi khuôn vào niêm luật, rồi lại chính con người phá luật. "Không có gì mới dưới ánh sáng mặt trời" (Kinh Thánh), những sáng tạo như cái được gọi là "thơ tự do" hiện nay cũng là trở về với những gì từng có trong lịch sử nhân loại.

 Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu. Ảnh: NVCC.

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu. Ảnh: NVCC.

Haiku nói cái bao la sâu thẳm bằng điều bình thường, dung dị

Một bài haiku hay bao giờ cũng gắn bó với cái bình nhật, nhấn mạnh những sự việc, sinh linh nhỏ bé, thường tình như cái bàn, cái ghế, cỏ dại, cây hoa...

Bên dòng Sumida / chú chuột kia uống nước / mưa mùa xuân pha (Issa)

Con rắn đi rồi / chỉ còn lại trong cỏ / đôi mắt nó nhìn tôi (Takahama Kyoshi)

Haiku nói về con chuột, con rắn như bản chất của chúng, không dùng sự vật để khen chê ám chỉ bất kỳ ai hay hạng người nào.

Hay Từ cây hoa nào / mà ta không biết / một làn hương trao không tôn vinh mai lan cúc trúc, mà ca ngợi một bông hoa vô danh.

Điều này phản ánh tư tưởng "nhất thiết bình đẳng" trong Phật giáo, không chịu ảnh hưởng của tôn ti trật tự.

Quan niệm thời gian trong haiku cũng không chút phảng phất tâm thế tôn sùng cái xưa, mà:

Chớp mùa hạ bay / hôm qua phương đông ấy / và bây giờ phương tây (Kikaku)

Cái hôm qua và cái hôm nay, phương đông và phương tây đồng hiện trong một chớp mắt thoáng qua.

Thơ haiku hầu như chỉ dùng động từ và danh từ, hiếm thấy sự xuất hiện tính từ.

Tinh hoa nghệ thuật haiku nằm ở chỗ hình thức thì tối giản nhưng nội dung thì sâu thẳm; mượn cái nhỏ nhoi, dung dị để nói về cái bao la, bát ngát; lấy cái phàm thể hiện cái thiêng.

Chẳng hạn, rất khó mà nói về tánh không (sunyata), nhưng chỉ qua một hình ảnh tưởng chừng không thể đơn giản hơn, Basho đã diễn đạt trọn vẹn:

Từ cành cao / hư không rơi xuống / trong vỏ ve sầu

Haiku không cần mượn đến "nghê thường vũ khúc", mà Issa chỉ ghi lại hình ảnh điệu múa của con mèo cùng cô bé dưới mưa: Mưa mùa xuân reo / một cô gái bé nhỏ / dạy mèo con múa theo.

Mỗi điều ta làm đều là nhịp điệu của vũ trụ. Ta thức dậy, ta lao động là nhịp điệu của Mặt trời thức giấc. Ta nhảy múa là nhịp điệu của mùa, của mưa. Tiểu vũ trụ và đại vũ trụ lúc nào cũng hòa điệu.

Vua Trần Thái Tông của nước Đại Việt từ cách đây hơn 800 năm đã viết:

Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương (Sen lúc hồng lên nghe nước thơm)

cũng là một bài thơ thấm đẫm tinh thần haiku (và dễ dàng ngắt nhịp Hồng ngẫu / khai thời / văn thủy hương): Trong bất kỳ hoàn cảnh nào (như sen ở trong bùn) mà an nhiên tự tại thì lòng cũng là tịnh độ, ở đâu và lúc nào mà không quý báu, thiêng liêng?

Trong haiku, cái đẹp thường u huyền mờ ảo nhưng nếu tập luyện, chịu nhìn thì cái đẹp đó sẽ hiện ra, như tịnh độ luôn ở sẵn trong ta.

(*) Hình ảnh đầu bài: Tranh Large Snowflakes (1944) của họa sĩ Uemura Shoen. Ảnh: Bảo tàng Nghệ thuật Adachi.

Tâm Anh

ghi

Nguồn Znews: https://znews.vn/tho-cung-la-mot-loai-thoi-trang-post1534354.html
Zalo