Theo bước chân ông cha mở đường
Bây giờ từ xứ Bắc vô Trung, thăm Nam rất thuận tiện do giao thông phát triển. Có đường quốc lộ 1A, rồi cao tốc gần hoàn thiện, đường nối giữa các tỉnh, thành… đều rộng dài. Nhưng trước đó, cha ông ta đã rất khó nhọc từng bước chân mở đường cái quan để con người được gặp gỡ.

Con đường thiên lý xa xôi
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong bài viết “Bước chân mở lối” cho biết, đầu thế kỷ 19, từ Hà Tiên ra đến Hà Nội có 97 trạm (khoảng cách 25 đến 30 dặm có 1 trạm, chừng 15 đến 20km). Năm 1831 đặt thêm 27 trạm, năm sau mở thêm 9 trạm, tổng cộng có 133 trạm vào giữa thế kỷ 19. Từ Huế đến Hà Tiên dài 1832km. Từ Huế đến ải Nam Quan (Lạng Sơn) dài 848km. Từ Huế ra Hà Nội dài 672km.
“Có một con đường lớn nối Phú Xuân và Đông Kinh (Hà Nội). Con đường này đẹp như đường châu Âu… đường tuy không lát gạch đá, nhưng chỗ nào không vững chắc thì người ta đổ gạch, đá vụn và đóng cọc để củng cố: đường làm hơi vồng lên ở giữa để thoát nước ra hai vệ đường. Hai bên đường có rãnh thoát nước và trồng cây…”. (theo “Hiện trạng Bắc Kỳ, Nam Kỳ, các vương quốc Lào, Campuchia và Lạc Thổ”, xuất bản ở Paris năm 1812).
Trên con đường thiên lý này có những cây cầu bền chắc, chạm trổ rất đẹp, lợp ngói… còn tồn tại đến ngày nay như ở các tỉnh phía Bắc. Trong sách Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về số lượng các cây cầu xây dựng bằng gạch đá ở các tỉnh: Quảng Ngãi có 59 cây cầu, Phú Yên có 29 cầu, Bình Định có 20 cầu..
Trước năm 1831, ở 11 trấn thuộc Bắc thành chỉ có một đường cái quan từ kinh đô đến ải Nam Quan. Triều đình Huế đã cho đắp thêm nhiều đường to: “Đường lấy mặt đất làm mực, thân rộng 5 trượng 5 thước, giữa cao 2 trượng, hai bên đường đều cao 1 thước.
Năm 1832, Vua Minh Mệnh ra dụ cho Bộ Công: “... Đường cái quan có nhiều chỗ núi cao, lính trạm leo trèo, Nhân dân đi lại, có nhiều khó khăn, trở ngại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào có đá làm ngăn trở, thì đốt cho nát phá bỏ đi, cốt rộng từ 4 - 5 thước trở lên, đủ đi lại được; chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày thành trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây thành bậc, cho được bằng phẳng, rồi ủy cho phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn, cốt được thành công để lợi ích lâu dài…” (theo “Quốc sử quán triều Nguyễn”).
Mở đường thì có các trạm. Các dịch trạm trên đường cái quan làm công việc bưu chính, đưa lệnh của triều đình và thu nhận báo cáo của địa phương. Công việc này rất quan trọng giao cho Thông chính sứ, các trạm này hoạt động ngày đêm để quản trị về mặt quốc phòng, hành chính, xã hội, kinh tế… phải được thông suốt, không ắc tắc, trở ngại. Các trạm đều được cấp ngựa, nhà trạm được xây dựng kiên cố, lớp ngói. Năm 1804, các trạm xung quanh tỉnh Thừa Thiên có 1 cai đội, 1 đội phó. Phu trạm từ Huế ra Quảng Bình mỗi trạm 80 người, từ Quảng Nam đến Gia Định mỗi trạm 50 người, từ Nghệ An đến Bắc Thành đều 100 người; miễn cho thuế thân và tạp dịch. Thời Minh Mệnh đổi đặt chức dịch thừa và dịch mục. Mỗi trạm được cấp 3 ngựa.
Nước non ngàn dặm
Con đường thiên lý ngày trước là đường đất, đi lại khó khăn, nhiều vùng hoang vu, hẻo lánh, đi qua cả rừng hoang, nhiều đèo dốc, nhiều thú dữ… Trong bài thơ “Long Thành - Phước Tuy đồ trung hoài cảm” của Nguyễn Thông - Hàn lâm viện tu soạn ở Nội các dưới triều Tự Đức viết: “Ve kêu tụ chốn nào?/Về tối giọng thềm sầu/Khách đi mệt muốn nghỉ/Vắng vẻ chốn rừng sâu!/Bên đường hổ đói rét/Mảnh áo giọt sương thâu…”.
Trong cuốn “Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Thạch Phương, Nguyễn Trọng Minh cho biết về cung đường này: “Dù còn khá hoang vắng, hiểm trở, thú dữ và cướp bóc rình rập, nhưng nhiều thương nhân ở miền Trung vẫn thường xuyên đưa hàng hóa vào buôn bán, trao đổi ở Long Điền, Chợ Bến hay Bà Rịa. Một số bô lão ở vùng Long Điền, Phước Lễ cho hay ông cố, ông nội của họ từng đi buôn ngựa, buôn bò từ các tỉnh Nam Trung Bộ vào Bà Rịa theo đường thiên lý, trước khi có đường ô tô, tàu hỏa”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi - Hội Khoa học Lịch sử TP HCM cho biết, con đường thiên lý từ Gia Định đi ra phía Bắc được khởi đầu từ cầu Thị Nghè qua Hàng Xanh, qua bến đò chỗ cầu Bình Triệu 1 (nay là quận Bình Thạnh, TP HCM), đến ngã tư quốc lộ 13 và đường Kha Vạn Cân ở địa phần phường Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, song song với đường sắt xuyên Việt... rồi lên ngã tư Linh Xuân, tới chợ Đồn, qua sông Đồng Nai. Từ Bình Phước đi theo đường cái quan qua ngã ba Vũng Tàu, rồi theo hướng quốc lộ 51 ngày này, xuống Phước Lộc (Long Thành, Đồng Nai) đến thị xã Bà Rịa, đến An Điền. Rồi đi tới huyện Long Điền, huyện Đất Đỏ, huyện Xuyên Mộc, rồi sang huyện Hàm Tân (Bình Thuận). Từ đây, đường thiên lý chạy dọc theo Biển Đông đi ra Bắc để đến kinh đô Huế.
Từ Sài Gòn đi về miền Tây, nơi sông nước, kênh rạch chằng chịt, đồng ruộng bao la cũng đã hình thành đường thiên lý dặm dài. Năm 1792, Nguyễn Ánh cho đắp đường từ Mỹ Tho qua giồng Kiên Định và bắc cầu Quỳ Tông. Trong năm này, ông đã huy động dân binh đắp đường thiên lý phía Nam từ Gia Định dọc theo giồng cát xuống Trần Định, qua Thủ Đoàn, giồng Cai Yến, giồng Tha La… cho tới giồng Thủ Triệu, Cái Thia.

Ảnh trong bài: Tuấn Ngọc
Năm 1835, Vua Minh Mệnh cho đắp các đường bộ ở các tỉnh Nam Kỳ dùng vào việc quan báo, khắc phục việc đi lại bằng đường thủy trước đây. Từ thành Định Tường (1 tỉnh cũ ở Nam Kỳ) còn có thêm 3 tuyến đường quan trọng khác: đường từ bắc thành Gia Định đến Định Tường, dài 10.800 trượng (từ Sài Gòn đi Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công, Chợ Gạo đến Mỹ Tho); đường từ cửa tây thành Định Tường đến địa giới tỉnh Vĩnh Long dài 6.600 trượng (từ Mỹ Tho cặp sông Tiền đến Cái Thia); cũng từ cửa tây đến Gia Định dài 5600 trượng (khoảng 95km). Nay là con đường từ TP Mỹ Tho đi tới thị xã Tân An (Long An), theo sông Bến Lức về Sài Gòn; đường từ Đông Nam thành Vĩnh Long đến địa giới Định Tường (từ Vĩnh Long đến bến đồ sang Cái Thia). Từ khi có đường từ Bến Nghé mở về phía Đồng bằng sông Cửu Long (1790) đã mở ra nhiều khu kinh doanh buôn bán sầm uất, nhiều địa giới hành chính, như chợ Phú Thọ, Tân Kiểng, chợ Phước Tú (Bến Lức) chợ Thủ Thừa, chợ Vũng Gù. Các sở phủ như Tân Bình, Tân An…
Trong cuốn “Gia Định thành thông chí”, Trịnh Hoài Đức chép con đường từ Sài Gòn - Gia Định được xây đắp rất bài bản: “Đường cái quan từ cửa Chấn Hanh qua cầu Hòa Mỹ đến sông Bình Đông tới trấn Biên Hòa. Đường cái quan bên phải chỗ nào cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, đầu từ cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương, từ phố Sài Gòn đến cầu Bình An qua gò Chùa Tuyên đến sông Thuận An. Bến đò Thủ Đoàn đưa qua sông Hưng Hòa, trải qua gò Trấn Định rồi đến gò Triệu. Đường rộng 6 tầm, hai bên trồng cây mù u và cây mít là những cây thích hợp với đất này. Cầu cống thuyền bến đều luôn được gia tăng tu bổ, đường rộng suốt phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam”.
Dưới triều Nguyễn, con đường để sang xứ Cao Miên được hình thành từ các đoàn sứ thần giữa Gia Định và Nam Vang. Các đoàn sứ thần, thương nhân qua lại bằng xe trâu, xe bò hoặc ngựa thồ, để trao đổi hàng hóa giữa hai nước. Chính con đường này, quân đội của nhà Nguyễn đến tiếp ứng, hỗ trợ triều đình Cao Miên chống lại quân xâm lược Xiêm.
Theo sử sách ghi nhận lại, đường thiên lý dặm dài trên quê hương Việt Nam có từ thời nhà Lý. Nhà Lý đã dựng các trạm dọc đường để chạy giấy tờ công văn. Tới thời Vua Lê Thánh Tông vào 1471, nhà vua đã cho xây dựng hệ thống giao thông liên lạc thông suốt từ Thăng Long cho tới phủ Hoài Nhơn (Bình Định) bằng đường bộ.
Các triều đại tiếp nối rất hiểu con đường cái quan có liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, vững yên bờ cõi… nên việc mở đường là việc phải làm. Bây giờ, con đường thiên lý xưa có thể không còn, thay vào đó là các quốc lộ, tỉnh lộ… , nhưng nhìn lại con đường vạn dặm mới thấy bước chân cha ông đi mở đường quả là gian lao.