Thể chế chủ trương của Đảng về chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số
Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm vừa qua với nhiều điểm mới, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông nguồn lực đất đai phát triển đất nước. Một trong những điểm mới được cử tri và nhân dân đánh giá cao là Luật đã thể chế được chủ trương của Đảng về chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảo đảm đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số
Chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện chính sách về đất đai thời gian qua cũng bộc lộ những tồn tại. Nghị quyết 18-NQ/TW cũng chỉ rõ, “việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở một số nơi còn chậm, hiệu quả chưa cao, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra”. Điều này đã phần nào ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số.
Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết 18-NQ/TW cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2025 giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, Nghị quyết 18-NQ/TW cũng nêu một trong những nhiệm vụ giải pháp về hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính về đất đai, trong đó có chính sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Để thể chế Nghị quyết 18-NQ/TW, Luật Đất đai (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua đã dành riêng 1 điều (Điều 16) quy định Trách nhiệm của nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Theo đó, Luật quy định, nhà nước có chính sách bảo đảm đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng.
Cùng với đó, Luật cũng quy định rõ, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phù hợp với phong tục tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống. Theo đó, giao đất ở trong hạn mức và được miễn, giảm tiền sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức giao đất ở và được miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với đất có nguồn gốc được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận hoặc được thừa kế, tặng cho, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; giao đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền sử dụng đất; cho thuê đất phi nông nghiệp không phải là đất ở để sản xuất kinh doanh và được miễn, giảm tiền thuê đất...
Hỗ trợ đất đai để bảo đảm ổn định cuộc sống cho cá nhân là người dân tộc thiểu số
Tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất đối với đồng bào là một thực tế đã và đang diễn ra. Đây cũng là mối quan tâm của đồng bào, cử tri, của các đại biểu Quốc hội và các chuyên gia trong suốt quá trình đóng góp ý kiến vào dự thảo Luật. Luật Đất đai (sửa đổi) đã giải tỏa được băn khoăn này khi quy định nhà nước có chính sách hỗ trợ đất đai để bảo đảm ổn định cuộc sống cho cá nhân là người dân tộc thiểu số đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất quy định tại khoản 2 Điều 16 nhưng nay không còn đất hoặc thiếu đất so với hạn mức mà thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Cụ thể như sau: trường hợp không còn đất ở thì được giao tiếp đất ở, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức giao đất ở và được miễn, giảm tiền sử dụng đất. Trường hợp thiếu đất ở thì cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức giao đất ở và được miễn, giảm tiền sử dụng đất. Trường hợp không còn hoặc thiếu đất nông nghiệp thì được giao tiếp đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền hoặc cho thuê đất phi nông nghiệp không phải là đất ở để sản xuất kinh doanh và được miễn, giảm tiền thuê đất.
Nếu như Luật Đất đai năm 2013 quy định chính sách đất đai đối với người dân tộc thiểu số như: có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng; có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn có đất để sản xuất nông nghiệp thì Luật Đất đai (sửa đổi) lần này đã quy định chi tiết hơn về các chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Điều này cho thấy, Luật Đất đai (sửa đổi) đã thể chế hóa một cách đầy đủ, toàn diện theo yêu cầu Nghị quyết 18-NQ/TW về chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, thể hiện rõ trách nhiệm của Quốc hội trong ban hành chính sách luôn hướng đến quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, luôn vì mục đích “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số được quy định trong Luật Đất đai (sửa đổi) được đánh giá là rất tiến bộ, nhân văn. Điều quan trọng lúc này là Chính phủ cần có phương án để sớm đưa Luật vào cuộc sống. Theo đó, cần sớm ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật. Cùng với đó là tăng cường tuyên truyền các chính sách, đặc biệt là các chính sách mới của Luật. Bởi chính sách chỉ thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi được triển khai trên thực tế, và không ai khác, đồng bào dân tộc thiểu số là những người sớm được thụ hưởng từ những chính sách nhân văn này.