Tháng 5 về thăm quê Bác làng sen
Về thăm quê Bác tháng 5, ta như được đi trong làn hương thơm dịu mát của hoa sen, loài hoa được xem như là biểu tượng quốc hoa của nước Việt, bởi những phẩm cách thanh cao và luôn tỏa rạng, tỏa sáng vừa thoảng hương thơm ngát, vừa bình dị, gần gũi với đồng quê mộc mạc; vừa cao vời khi được gắn vào logo máy bay của hãng hàng không Vietnam Airlines bay đến mọi miền đất nước, với bạn bè năm châu bốn bể, như một nhịp cầu vồng lấp lánh.

Làng Sen quê Bác.
Cái loài hoa thật lạ: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Đó là sự thanh lọc cao cả cũng như ý chí tinh thần bất khuất của dân tộc ta kiên cường: “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ Nguyễn Đình Thi. Ba sắc màu hoa sen hài hòa vào nhau: “Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng”. Tôn vinh nhau và đằm thắm trong nhau. Hoa sen có cái màu trắng trong, tinh chất thanh khiết của nước; có cái màu xanh mướt của mộc, của cây; lại có cái màu vàng hoàng thổ của sự sang trọng, phú quý, ấm no. Búp sen như búp tay tượng hình điệu múa cổ lại như hình trái tim hướng về tâm con người. Hình ảnh đức Phật tọa thiền trên đài sen mang một vẻ đẹp tâm linh hướng về cõi thiện, tỏa ra lung linh hào quang, như những vòng sóng liên hồi gợi mở, thức dậy, lan tỏa trong ta sự bình yên an lạc.
Bác Hồ sinh ra ở làng Sen, những năm tháng tuổi thơ cùng cha mẹ vào Huế, Bác lại được sống trong hương sen ở thành nội Cố đô Huế. Và thật trùng hợp ngẫu nhiên, tại Cao Lãnh (Đồng Tháp) có ngôi mộ của cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ Bác) là bạt ngàn hoa sen Đồng Tháp Mười đã tạo ra cảm hứng cho nhà thờ Bảo Đĩnh Giang viết hai câu thơ thật hay đúc kết như ca dao: “Tháp Mười đẹp nhất hoa sen/Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Tôi đứng bồi hồi bên cánh võng đay trong nhà Bác, cánh võng mà mẹ Hoàng Thị Loan trong những đêm trường vừa quay xe dệt vải, vừa ru Bác những làn điệu dân ca xứ Nghệ mà mãi cho đến sau này, Bác vẫn còn nhớ nguyên vẹn những lời hát, lời quê mạch nguồn dân ca đã là bầu sữa nuôi dưỡng tâm hồn Người. Cho đến lúc trước khi đi xa, Bác vẫn thèm nghe một khúc hát dân ca, một câu hò ví dặm trong bài hát “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” của nhạc sĩ Trần Hoàn. Tôi cứ hình dung cánh võng ấy như hình đất nước mắc hai đầu Bắc – Nam và miền Trung quê Bác là khúc giữa. Cánh võng chùng xuống như eo thắt miền Trung – miền quê với thiên nhiên khắc nghiệt đã tôi luyện con người nơi đây những phẩm chất kiên cường lòng hiếu học và nuôi chí lớn.
Tháng 5 về thăm quê ngoại Bác Hồ là làng Hoàng Trù, còn được gọi là làng Chùa - một cái tên thật nôm na bình dị. Sau cánh cửa tre rộng mở là lối đi giữa hai bờ dâm bụt dẫn chúng ta đến ngôi nhà thờ và hai ngôi nhà mái lớp tranh thân thiện nơi đây cách 135 năm, Bác Hồ đã cất tiếng khóc chào đời trong vòng tay thân mẫu của mình. Những ngón tay mền mại trìu mến của mẹ Hoàng Thị Loan đã từng chuốt từng sợi tơ vàng dệt nên những tấm vải cũng là dệt nên những ước mong đứa con của mình mai sau lớn lên học hành đỗ đạt tiếp bước theo cha. Chiếc khung cửi đặt ở gian thứ ba đã lên nước thời gian mài bóng. Chiếc khung cửi thân thiết đó đã được các kiến trúc sư cách điệu trở thành cái mái che đúc bằng bê tông trên mộ của bà Hoàng Thị Loan ở nơi núi Đồng Tranh - một biểu tượng thanh cao, bình dị lưu giữ nét làng nghề, làng quê truyền thống.
Cũng trong ngôi nhà ở Hoàng Trù, gian ngoài của cửa sổ có chiếc án thư với nghiên mực, hộp đựng bút lông. Chếch về phía bên trong là hai giá đựng sách thánh hiền. Quê nội Bác Hồ cách quê ngoại Hoàng Trù hai cây số. Đó là năm 1901, cụ Nguyễn Sinh Sắc thi đỗ Phó bảng. Nhân dân làng Sen đã dựng ngôi nhà năm gian mộc mạc cho cụ. Trong ngôi nhà đơn sơ này, cụ Sắc đã dành hai gian rộng rãi để đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan và để tiếp khách. Gian thứ tư là nơi nghỉ của cụ Sắc. Ở đây có bộ bàn ghế kê bên cửa sổ, bên cạnh có chiếc án thư nơi cụ dạy các con học chữ.
Ta thật xúc động khi gặp lại các hiện vật đơn sơ, giản dị trong cuộc sống đời thường của gia đình Bác. Đó là chiếc rương đựng lương thực, chiếc tủ đứng hai ngăn đựng đồ dùng có chiếc mâm bằng gỗ sơn đen. Tôi được nghe người dân làng Sen kể lại, khi về thăm quê, Bác nhìn cái rương đựng lương thực có cái lỗ nhỏ mà ngày ấu thơ Bác và anh cả Khiêm từng thò ngón tay trỏ vào ngoáy ngoáy, bồi hồi lặng đi, đôi mắt nhìn ra xa, Bác nói: “Các cô, các chú thật khéo giữ chiếc rương gỗ ngày xưa vẫn còn đó”. Đặc biệt, thật xúc động khi Bác đứng trước bàn thờ của mẹ và rưng rưng nói với mọi người: “Xưa nhà Bác nghèo, bàn thờ chỉ làm bằng tre, không có chân mà chỉ dùng hai miếng gỗ đóng giá vào hai bên cột đỡ bàn thờ lên, lợp bằng nứa, trên trải bằng chiếc chiếc mộc”.
Khi về thăm nhà, Bác đi theo lối cũ xưa, hỏi thêm lò rèn cố Điền rồi cái giếng Cốc quen thuộc gắn bó với tuổi thơ của mình. Khi nói chuyện với bà con làng Sen với giọng trầm ấm áp quen thuộc, người lẩy Kiều: “Quê hương nghĩa trọng tình cao/Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”... Bác Hồ - một nhân cách cao cả đã được sinh ra, được nuôi dưỡng, được tắm mình trong hương nắng của làng Sen chắt chiu, hương của cây đời xanh tươi, hương của tình người ấm áp. Trở về làng Sen, ta như bắt gặp nơi đây hình bóng của chính quê hương mình mộc mạc, đơn sơ, bình dị. Ta luôn thấy hình ảnh Bác đang đi giữa: “Làng Trù quê mẹ và làng Sen quê cha” (Thuận Yến) để rồi, bao xúc cảm bồi hồi bỗng trào dâng với niềm kính yêu vô hạn. Hương sen tháng 5 chính là làn hương cuộc đời của Bác. “Một đời thanh bạch chẳng vàng son/Mong manh áo vải hồn muôn trượng/Hơn tượng đồng phơi những lối mòn" (Tố Hữu).