Tăng trưởng 8%: Giải pháp nào giúp kinh tế Việt Nam phát triển?
Quốc hội vừa thông qua Nghị quyết bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu GDP 2025 được Quốc hội điều chỉnh lên trên 8%, thay vì mức 6,5-7% như cuối năm ngoái, giúp quy mô kinh tế có thể vượt 500 tỉ USD. PGS.TS Nguyễn Văn Nam – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương bình luận về vấn đề này.

PGS.TS Nguyễn Văn Nam – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương.
Phó Giáo sư Nguyễn Văn Nam cho rằng: "Trong Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2021-2025) thì năm 2025 là năm cuối của việc thực hiện kế hoạch.
Có nhiều yếu tố quyết định, tạo bản lề trước khi bước vào Đại hội 14, bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Với mục tiêu tăng trưởng hơn 8% là cao hơn kế hoạch được duyệt trước đây 1-1,5% tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt hai chữ số thời gian tới và Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào 2045. Để đạt được mục tiêu này, cần nhìn nhận rõ thực trạng, những thuận lợi và những thách thức, khó khăn để từ đó tìm ra hướng đi phù hợp.
"Chúng ta cũng có những mặt thuận lợi đó là Đảng và Chính phủ đang có sự quyết tâm thay đổi mạnh mẽ quyết liệt trong việc quản lý kinh tế, tháo gỡ nút thắt về điểm nghẽn thể chế. Thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tiếp tục phát huy mạnh mẽ kết quả đạt được trong phát triển kinh tế xã hội năm 2024" - PGS.TS Nguyễn Văn Nam – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Công Thương bình luận.
Bên cạnh những thuận lợi thì cũng gặp rất nhiều khó khăn, thách thức: Ở trên thế giới thì việc xung đột ở một số khu vực đang diễn ra phức tạp khó lường như Ukraina – Nga, vùng Trung đông, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tập đoàn xuyên quốc gia, các nước lớn gia tăng hàng rào thương mại, thuế quan như mới đây là các mặt hàng về nhôm của Mỹ.
Thứ nhất là việc tạo lập thị trường: Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp kinh tế để tháo gỡ vưỡng mắc, nhưng khó nhất là việc tạo lập thị trường một cách bài bản thì chưa có. Khi chúng ta tạo lập được thị trường thì sẽ thúc đẩy doanh nghiệp và người dân tham gia mạnh mẽ vào thị trường, kính thích nền kinh tế phát triển. Trong khi thực tế hiện nay thì nhiều ngành vẫn trông chờ ở đầu tư của nhà nước, chưa thấy bóng dáng của doanh nghiệp tư nhân.
Nhìn về Trung Quốc, những năm 80 có trình độ kinh tế tương đương nhưng họ đã phát triển kinh tế mạnh mẽ. Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại phiên thảo luận tổ, Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV ngày 13/2 cũng nhấn mạnh: So sánh với Trung Quốc, cách đây 40 năm, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam và Trung Quốc đều ở mức 300-400 USD. Nhưng hiện nay, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc đã đạt 12.000-15.000 USD, trong khi Việt Nam mới chỉ ở mức 4.700 USD. Điều này cho thấy, tốc độ phát triển của chúng ta vẫn còn nhiều khó khăn và đòi hỏi những cải cách mạnh mẽ hơn để bắt kịp.
Thứ hai là về các tập đoàn lớn – đầu tàu thúc đẩy kinh tế: Hiện nay, Việt Nam có hàng chục tập đoàn với quy mô tỉ USD, trong đó hai tập đoàn vươn tầm quốc tế, cạnh tranh được một số mặt hàng là Vinfast và Thép Hòa Phát. Đây là con số khiêm tốn. Chúng ta muốn phát triển mạnh hơn nữa cần phải có hàng trăm tập đoàn lớn mạnh như Vinfast và Hòa Phát để đủ sức vươn mình với quốc tế. Nhận thức rõ vai trò của kinh tế tư nhân, ngày 10/2, Chính phủ gặp gỡ doanh nghiệp về nhiệm vụ, giải pháp để doanh nghiệp tư nhân tăng tốc, bứt phá, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.
Thứ ba là tăng cường đẩy mạnh tư nhân hóa một cách triệt để: Với các biện pháp và chính sách như hiện nay chưa đủ độ. Những thay đổi vừa qua là yếu tố cần thiết để tháo gỡ vướng mắc từ thể chế, tư duy chính sách từ đó tạo hành lang thúc đẩy cho kinh tế tư nhân phát triển.
Tháng 1/2025 vừa qua có hơn 52000 doanh nghiệp đóng cửa, vậy Nhà nước cần chính sách thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ phát triển?
Phó Giáo sư Nguyễn Văn Nam nêu ý kiến: Trong rất nhiều chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thì vấn đề thiếu vốn tích tụ, vốn lưu động là quan trọng nhất. Một doanh nghiệp muốn hoạt động khỏe mạnh là phải trường vốn. Trong khi doanh nghiệp Việt Nam đa phần còn nhỏ lẻ, tích lũy chưa nhiều, khi gặp các tác động từ bên ngoài, hoặc chính sách thay đổi sẽ dẫn tới thiếu vốn hoạt động, hoạt động cầm chừng hoặc đóng cửa. Do đó, Chính phủ mà đặc biệt là Ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp cụ thể trong việc vay vốn tín dụng dài hạn, tạo nền tảng cho doanh nghiệp tiếp cận vốn và yên tâm hoạt động. Ngoài ra, như đã nói ở trên là cần có thị trường để doanh nghiệp hoạt động thì tôi tin rằng kinh tế Việt Nam không chỉ khởi sắc mà còn bứt phá mạnh mẽ.
Về nhận định khoa học công nghệ sẽ tác động tới doanh nghiệp Việt Nam thế nào trong bối cảnh khó khăn thách thức do tác động của thế giới, Phó Giáo sư Nguyễn Văn Nam nói: "Trong bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập sâu rộng như hiện nay, việc thế giới thay đổi sẽ tạo ra sự rung động, dù ít hay nhiều với nền kinh tế. Các doanh nghiệp cần tỉnh táo nhìn nhận vấn đề bởi cơ hội đi liền với thách thức. Trong đó, khoa học công nghệ đóng vai trò then chốt trong việc giúp doanh nghiệp Việt Nam thích ứng và phát triển".
Thứ nhất là tăng cường năng suất và tối ưu hóa chi phí: Tự động hóa và trí tuệ nhân tạo (AI) giúp doanh nghiệp giảm chi phí nhân công, tối ưu quy trình sản xuất. Công nghệ số giúp cải thiện quản lý chuỗi cung ứng, hạn chế lãng phí và tăng hiệu quả vận hành.
Thứ hai là chuyển đổi số và mở rộng thị trường: Thương mại điện tử và nền tảng số giúp doanh nghiệp tiếp cận khách hàng quốc tế mà không cần hiện diện vật lý. Thanh toán số và blockchain giúp giao dịch nhanh chóng, minh bạch hơn.
Thứ ba là đổi mới sản phẩm và dịch vụ: Công nghệ sinh học, vật liệu mới, AI và IoT giúp doanh nghiệp tạo ra sản phẩm đột phá.
Tăng khả năng thích ứng trước biến động: Dữ liệu lớn (Big Data) và phân tích dự báo giúp doanh nghiệp nhận diện xu hướng thị trường và điều chỉnh chiến lược kịp thời. Công nghệ chuỗi khối (blockchain) tăng tính bảo mật, minh bạch, giúp doanh nghiệp tránh rủi ro gian lận.
Chúng ta cũng cần lưu ý việc lập doanh nghiệp làm khoa học công nghệ. Các doanh nghiệp này sẽ hoàn toàn tự chủ từ vốn, tuyển người và cung cấp các sản phẩm nghiên cứu khoa học theo yêu cầu của các doanh nghiệp. Như vậy sẽ góp phần thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào doanh nghiệp.