Tản mạn thuyền hai thân

Tháng 3/2025, các nhà khảo cổ học đã khai quật một chiếc thuyền hai thân (hai đáy hay hai bụng ) cổ ở thị xã Thuận Thành, Bắc Ninh. Trong khi chờ kết quả phân tích carbon-14, các nhà khảo cổ học có hai giả thuyết: đa số xác định nó có niên đại thế kỷ 11-14, thời Lý-Trần.

Có người nhận xét đó là kiểu “thuyền có quy mô, cấu trúc và kỹ thuật phức tạp nhất, duy nhất phát hiện được cho đến nay không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới”. Tuy nhiên, thuyền hai thân là một dạng thuyền khá phổ biến ở Đông Á và Đông Nam Á xưa và vùng Polynesia-Nam Thái Bình Dương hàng ngàn năm nay.

Thuyền hai thân Đông Á

Về phía Bắc, theo sử sách, thuyền hai thân đã có từ thời Tây Chu (1045-771 TCN) và được dùng phổ biến thời Hán (206 TCN-220). Vào các thời đó, hoàng gia và giới quý tộc dùng dạng thuyền này với cỡ lớn, có lầu thuyền và trang trí đẹp để du ngoạn trên sông; còn các tầng lớp khác dùng dạng thuyền cỡ nhỏ hơn để đi lại, làm ăn ở vùng sông nước chảy xiết hay vùng ven biển. Hình vẽ cổ nhất về dạng thuyền này trong cuộn tranh lụa màu “Thần nữ sông Lạc” của Cổ Khai Chi, một họa sĩ nổi tiếng thời Đông Tấn (317-420).

Dấu tích thuyền hai thân bị đắm đã được phát hiện ở một số nơi: một chiếc thời Tùy (581-618) gốc từ Nam Trung Quốc ở Sơn Đông; một chiếc thời Tống có gốc Phúc Kiến ở Jeolla (Hàn Quốc). Người Ainu ở đảo Hokkaido, Nhật Bản cũng có dạng thuyền này…

Một dạng thuyền hai thân mang tên “thuyền rồng” phổ biến ở vùng ven biển Nam Trung Quốc, đặc biệt ở vùng Lĩnh Nam (bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam) từ thời Hán cho đến thời Thanh. Phải chăng dạng thuyền rồng hai thân dùng cho khách du lịch ở Huế ngày nay là con cháu của dạng thuyền trên?

Thuyền buồm hai thân Hawaii thế kỷ 18.

Thuyền buồm hai thân Hawaii thế kỷ 18.

Thuyền hai thân Đông Sơn

Trên một trống Đông Sơn trong một ngôi mộ thời Hán ở La Bạc Loan, Quảng Tây, Trung Quốc có hình một chiếc thuyền biển hai thân, bên dưới có hình cá đuối, một loài cá biển. Thuyền chỉ có một đầu hình rồng-cá sấu nhưng lại có hai đuôi hình đầu chim tương ứng với hai thân, không có buồm và người chèo chỉ thấy trên một thân thuyền.

Một chiếc thuyền hai thân Đông Sơn khác có trên tranh vách đá ở đảo Timor tuy chỉ có một đầu một đuôi thuyền nhưng trên cả hai thân thuyền có hình người tương tự các hình người múa ếch trong lễ cầu mưa–cầu mùa của người Lạc Việt trên rìu Đông Sơn và tranh vách đá ở Hoa Sơn, Quảng Tây. Đặc biệt, thuyền có một cánh buồm lớn hình chữ nhật. Rất có thể, đó là hình vẽ tái hiện một chiếc thuyền buồm hai thân đã đưa một nhóm di dân Đông Sơn tới đảo này, nơi cho đến 2014 đã tìm thấy 3 chiếc trống đồng Đông Sơn, một chiếc có mặt lớn hơn 1m với tượng 4 ếch.

Do thuyền trên trống đồng mang tính biểu tượng ma thuật nên chúng ta thấy hai con thuyền hai thân Đông Sơn trên được thể hiện cách điệu, ước lệ và siêu thực. Tương tự, hình đàn hươu trên trống Ngọc Lũ cả con đực và con cái đều có sừng, nhưng trong tự nhiên, chỉ hươu đực mới có sừng. Như vậy, văn hóa Đông Sơn chắc chắn đã có thuyền hai thân. Vì thế, giả thuyết coi thuyền đôi Bắc Ninh có niên đại Đông Sơn là có cơ sở.

Mặt khác, nếu thời Đông Sơn đã có thuyền hai thân thì việc tìm thấy thuyền hai thân ở vùng đất Luy Lâu bên bờ sông Dâu lại gợi ý đó có thể là chiếc thuyền thời Sĩ Nhiếp (137-226). Ông có gốc từ Thương Ngô, Quảng Tây, là một viên quan nhà Hán nhưng được sử gia Đại Việt thời Lý-Trần-Lê tôn là “Sĩ Vương”. Người dân Bắc Ninh vẫn thờ cúng ông tại khu đền và lăng mộ Sĩ Nhiếp-Nam Giao học tổ... Sĩ Nhiếp cũng chính là người đã cho đúc một loạt trống đồng dạng Đông Sơn ở Luy Lâu với dấu tích là các khuôn đúc đồng ở Lũng Khê. Tiếp đó, việc các vua Lý cho đóng thuyền hai thân cũng là điều dễ hiểu bởi thời Lý chính là thời kế thừa, đổi mới và phục hưng mạnh mẽ một loạt truyền thống của văn hóa Đông Sơn như thờ thần trống đồng, thờ các loài vật tổ nước, tục xăm mình, múa rối nước…

Một mô hình thuyền hai thân Polyneian.

Một mô hình thuyền hai thân Polyneian.

Thuyền buồm hai thân Polynesian

Nếu các tư liệu khảo cổ không nói được nhiều về dạng thuyền đôi Đông Sơn và Bắc Ninh thì các tư liệu dân tộc học về thuyền đôi Polynesian sẽ giúp chúng ta biết thêm nhiều điều lý thú quanh dạng thuyền này.

Về phía Nam, thuyền hai thân là một dạng thuyền đặc trưng và nổi tiếng của người Polynesian. Người Polynesian là cư dân vùng Polynesia (Đa Đảo) với hơn 1.000 đảo ở Nam Thái Bình Dương. Họ là con cháu của di dân đường biển nói tiếng Nam Đảo, những người Bách Việt từ vùng biển đảo Đông Nam Trung Quốc, đặc biệt từ Đài Loan vượt biển xa xuống các đảo phía Nam hòa nhập với cư dân bản địa. Dạng thuyền buồm hai thân của người Polynesian chính là sự phát triển dạng thuyền hai thân của tổ tiên họ.

Chính dạng thuyền đó đã giúp người Nam Đảo xưa và người Polynesyan sau này trong hàng ngàn năm nay khám phá, chinh phục và làm chủ các vùng đảo mới, từ đó đưa con người và văn hóa của họ lan tỏa khắp vùng Tam giác Polynesia bao gồm các đảo New Zealand, New Ghinea, Hawaii… Đó chính là nơi thể hiện sức sống, lòng dũng cảm cùng những kỹ năng và tri thức nguyên thủy nhưng rất phong phú và đặc sắc của họ.

Về cơ bản, dạng thuyền này được tạo từ hai chiếc thuyền độc mộc, đặt song song và nối với nhau bằng các thanh ngang làm bằng tre hoặc gỗ. Khoảng giữa hai thân có thể đặt sàn tre, gỗ, dựng nhà để chở người, vật nuôi, thực phẩm và các vật dụng cần thiết. Đó là dạng thuyền vững chãi, thích hợp cho cả việc đánh cá ven bờ lẫn các cuộc vượt biển xa dài ngày.

Dạng thuyền này dài trung bình 9-21m, rộng 9-30m, có thể chở trên 100 người. Chiếc thuyền dài nhất được biết dài 32,6m chở 250 người. Tuy nhiên, dạng chuyên dùng để đi biển đường dài chỉ khoảng 20m.

Thuyền đi biển thường có 1-2 buồm, phổ biến là loại buồm hình tam giác làm từ lá dừa nước hay nan tre đan trông giống hình càng cua nên gọi là “buồm càng cua”. Buồm này giúp thuyền đạt tốc độ cao khi đi gió và xiên gió.

Thuyền không có bánh lái như các dạng thuyền khác mà được điều khiển bằng một mái chèo lớn phía sau, thay đổi hướng buồm và trọng tâm của thuyền.

Khi đi biển, người Polynesia không dùng bản đồ, la bàn như người phương Tây mà dùng các kỹ thuật định hướng, tìm đường bằng quan sát hướng mọc lặn của mặt trời ban ngày, của mặt trăng và các chòm sao đặc biệt và các vì sao sáng nhất ban đêm.

Đặc biệt, người đi biển ở vùng Micronesia lại có một dạng bản đồ làm từ lá dừa, vỏ quả dừa, vỏ ốc, mảnh san hô, các cây que để thể hiện hướng sóng biển, các đảo. Dạng bản đồ đó được nhớ trong óc chứ không trong tay họ.

Người đi biển ở Polynesia cũng theo dõi hướng các đàn chim di cư để xác định hướng đi của mình. Một số loài chim thường chỉ bay xa cách đất liền một khoảng ngắn. Theo hướng chim bay của các loài chim đó, họ sẽ tìm được đất liền – nơi chúng đi kiếm ăn buổi sáng và trở về vào buổi tối.

Ngoài ra, họ cũng các cách định hướng từ quan sát cảm nhận hướng sóng, gió, các đám mây và dòng hải lưu. Truyền thuyết còn kể những bậc thầy trong nghề đi biển có thể nhắm mắt lại và phân biệt các con sóng vỗ vào thuyền để biết hướng đi của họ đúng hay sai.

Tất cả các tri thức dùng thuyền buồm hai thân đi biển của người Polynesian thường được đúc kết thành các câu tục ngữ, dân ca, được trao truyền qua nhiều thế hệ kiểu cha truyền con nối hay qua các bài học tại các nghi lễ cộng đồng.

Việc bảo tồn và phát huy các tri thức đó đã được đánh dấu bằng sự kiện ngày 4/6/1976, một số thủy thủ Hawaii đã dùng thuyền buồm hai thân truyền thống vượt 3.862 km từ Hawaii đến Tahiti sau 33 ngày. Đó là chuyến đi dài đầu tiên trên thế giới chỉ dùng cách tìm đường truyền thống của người Polynesian…

Tạ Đức

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/tan-man-thuyen-hai-than--i769915/
Zalo