Tận dụng tối đa cơ hội giảm thuế từ Hiệp định CEPA với UAE
Việc triển khai Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA) giữa Việt Nam và UAE với các quy định rõ ràng về xuất xứ hàng hóa sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nước tận dụng cơ hội hợp tác, gia tăng xuất khẩu và mở rộng thị trường.
Vì vậy, Dự thảo Thông tư quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định CEPA giữa Việt Nam và UAE đang được Bộ Công Thương (thông qua Cục Xuất nhập khẩu) lấy ý kiến rộng rãi của cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan quản lý...

Tuần lễ hàng Việt Nam tại UAE. Ảnh: CT
Việt Nam và các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) có quan hệ thương mại phát triển mạnh mẽ, với kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng. UAE đang là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại khu vực Trung Đông.
Bộ Công Thương
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Dự thảo Thông tư, hàng hóa được coi là có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một nước thành viên trong các trường hợp sau: Cây trồng và sản phẩm từ cây trồng được trồng, thu lượm hoặc thu hoạch tại lãnh thổ của nước thành viên đó; Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại lãnh thổ của nước thành viên đó; Hàng hóa thu được từ động vật sống tại lãnh thổ của nước thành viên đó; Khoáng sản hoặc tài nguyên thiên nhiên được khai thác hoặc thu được từ đất, lòng đất, vùng nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của nước thành viên đó; Hàng hóa thu được từ săn bắn, đánh bẫy, thu thập, săn bắt, đánh bắt hoặc nuổi trồng thủy sản tại lãnh thổ của nước thành viên đó.
Cùng với đó là trường hợp: Hải sản và các sản phẩm từ biển khác đánh bắt ngoài lãnh hải của lãnh thổ của nước thành viên bởi tàu được đăng ký, ghi lý lịch, niêm yết hoặc cấp giấy phép tại một nước thành viên và treo cờ của nước thành viên đó; Hàng hóa được sản xuất ngay trên boong tàu được đăng ký, ghi lý lịch, niêm yết hoặc cấp giấy phép tại một nước thành viên và treo cờ của nước thành viên đó; Hàng hóa, trừ hải sản và các sản phẩm từ biển khác, thu được hoặc khai thác từ đáy biển, đáy đại dương hoặc lòng đất dưới thềm lục địa hoặc vùng đặc quyền kinh tế của bất kỳ nước thành viên với điều kiện nước thành viên đó hoặc cá nhân, tổ chức của một nước thành viên có quyền khai thác đáy biển, đáy đại dương hoặc lòng đất, phù hợp với quy định luật pháp quốc tế.
Hoặc trường hợp: Vật phẩm đã qua sử dụng thu được tại lãnh thổ của nước thành viên đó với điều kiện hàng hóa đó chỉ phù hợp để tái chế thành nguyên liệu thô; Phế thải hoặc phế liệu thu được từ quá trình sử dụng, tiêu dùng hoặc sản xuất tại lãnh thổ của nước thành viên đó; Hàng hóa được sản xuất hoặc thu được tại lãnh thổ của nước thành viên đó chỉ từ các hàng hóa theo quy định.
Về nguyên tắc cộng gộp, Dự thảo nêu rõ, hàng hóa có xuất xứ tại một nước thành viên và được sử dụng làm nguyên liệu tại lãnh thổ của nước thành viên khác, được coi là có xuất xứ của nước thành viên nơi sản xuất hoặc chế biến ra hàng hóa cuối cùng; Hàng hóa có xuất xứ tại một nước thành viên nhưng được sản xuất bởi công đoạn gia công, chế biến đơn giản theo quy định tại Điều 10 Thông tư này thì hàng hóa đó được giữ nguyên xuất xứ của nước thành viên trước đó.
Dự thảo Thông tư cũng nêu rõ, hàng hóa được coi là đã trải qua công đoạn gia công, chế biến đầy đủ và có xuất xứ tại lãnh thổ của một nước thành viên nếu hàng hóa đó đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: Chuyển đổi mã số hàng hóa ở cấp độ Nhóm khi tất cả nguyên liệu không có xuất xứ được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa, phải chuyển đổi mã số hàng hóa ở cấp độ 4 số; Hàm lượng giá trị gia tăng không thấp hơn 35% giá xuất xưởng.
Đối với hàng hóa không đáp ứng quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa vẫn được coi là có xuất xứ nếu trị giá của tất cả các nguyên liệu không có xuất xứ để sản xuất ra hàng hóa không trải qua chuyển đổi mã số hàng hóa, không vượt quá 20% giá xuất xưởng của hàng hóa đó.
Theo Bộ Công Thương, việc lấy ý kiến nhằm hoàn thiện quy định trong Thông tư, đảm bảo tính khả thi khi áp dụng, đồng thời tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động thương mại giữa hai nước.
Bởi thông tư này sẽ áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức có chức năng cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), các thương nhân hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và UAE, cũng như các cá nhân, tổ chức có liên quan đến vấn đề xuất xứ hàng hóa.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, trong những năm qua, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và UAE bình quân đạt khoảng 5 tỷ USD/năm.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang UAE gồm điện thoại di động, máy vi tính và linh kiện, sản phẩm điện, điện tử gia dụng, hạt tiêu, thủy sản, giày dép… Trong khi đó, các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ UAE gồm chất dẻo nguyên liệu, khí đốt hóa lỏng, chế phẩm từ dầu mỏ…
Tuy trao đổi thương mại song phương tăng trưởng đều đặn hàng năm, nhưng quy mô chưa lớn, cơ cấu mặt hàng chưa thực sự đa dạng, tương xứng với tiềm năng của Việt Nam.
Với Hiệp định CEPA, UAE cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với nhiều ngành hàng chủ lực và có tiềm năng xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Đáng chú ý, có thể kể đến các ngành hàng được hưởng lợi như nông sản (hạt điều, hạt tiêu và mật ong) sẽ có cơ hội thâm nhập sâu vào thị trường UAE và Trung Đông nhờ giảm thuế.
Đây cũng là khu vực có nhu cầu lớn về nông sản chất lượng cao, đặc biệt là sản phẩm sạch và hữu cơ cũng như có Chứng nhận Halal.
Ngành hàng được hưởng lợi nữa là dệt may, da giày, điện tử... Đây đều là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh. Việc cắt giảm thuế quan theo Hiệp định CEPA sẽ giúp các sản phẩm này cạnh tranh tốt hơn về giá cả và mở rộng thị phần của Việt Nam tại UAE.
Bên cạnh đó, với nhu cầu tiêu thụ thủy sản cao cấp tại UAE, đặc biệt là các sản phẩm tôm và cá, ngành thủy sản Việt Nam sẽ có thêm cơ hội tăng cường xuất khẩu và nâng cao giá trị sản phẩm nhờ vào ưu đãi từ Hiệp định CEPA.
Đồng thời, gỗ và các sản phẩm từ gỗ là mặt hàng cũng sẽ được hưởng lợi đáng kể từ Hiệp định CEPA. Với tốc độ đô thị hóa nhanh và các dự án bất động sản cao cấp tại UAE, nhu cầu đối với các sản phẩm gỗ, đặc biệt là đồ nội thất và vật liệu xây dựng là rất lớn./.