Tách bạch pháp nhân – người đại diện, một nguyên tắc để kinh tế tư nhân cất cánh

Trong nhiều trường hợp, việc 'tóm lấy' người đại diện theo pháp luật của công ty có vẻ như là một biện pháp gây sức ép có trọng lượng. Song, câu chuyện tưởng chừng đơn giản ấy lại bộc lộ một vấn đề mâu thuẫn về nguyên tắc lẫn chính sách, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay với sự ra đời của Nghị quyết 68.

Chuyện kể rằng, ông V. là người đại diện theo pháp luật kiêm chủ tịch hội đồng quản trị của một công ty cổ phần. Thấy tình hình kinh doanh ngày càng kém và bản thân cũng vơi đi tâm huyết, ông V. đã xin từ chức, thoái vốn và cắt đứt các mối liên hệ pháp lý với công ty. Nhưng vào một ngày đẹp trời, ông V. hay tin mình bị tạm hoãn xuất cảnh. Lúc này, ông mới biết do công ty nợ thuế và bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện theo pháp luật. Trong khi đó, công ty thì lại chưa hoàn thành thủ tục cần thiết nên hệ thống Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp vẫn ghi nhận ông V. là người đại diện theo pháp luật. Bởi vậy, ông V. đành phải ngậm ngùi hoãn kế hoạch xuất cảnh của mình.

Công ty cũng là con người độc lập

Công ty được xem là có tư cách pháp nhân hay tư cách một con người độc lập trong mắt của luật pháp. Ngược dòng thời gian, tư cách pháp nhân công ty ra đời từ nhu cầu tự nhiên của con người khi đứng trước cơ hội kinh doanh. Thật vậy, nếu một doanh nhân bỏ tiền ra làm ăn và phải chịu trách nhiệm bằng tất cả vốn liếng của mình, tâm lý họ ít nhiều sẽ e ngại. Bởi ngoài rủi ro mất sạch tài sản, phía sau đó còn là sự ảnh hưởng tới người thân và gia đình. Chính nhu cầu này đã thúc đẩy sự ra đời, sự thừa nhận về một tư cách chủ thể kinh doanh độc lập với chính người đã lập nên nó. Tư cách pháp nhân của công ty đã xuất hiện trong bối cảnh rất “đời” như vậy.

Trên thực tế, việc độc lập này không chỉ là sự tưởng tượng. Bởi người ta còn nhận thấy rằng, nhiều tổ chức kinh doanh còn có một suy nghĩ, ý chí riêng, tách biệt hẳn với mong muốn, suy nghĩa của các thành viên trong tổ chức. Nói cách khác, các tổ chức này dường như cũng là một con người vô hình, độc lập thực sự với các cá nhân trong tổ chức.

Mặc dù cũng là con người, song pháp nhân là một người vô hình, không có thân thể. Bởi vậy, để thực sự “sống” hay có thể tham gia vào các giao dịch thì pháp nhân cần thiết phải có người đại diện. Luật doanh nghiệp gọi đó là người đại diện theo pháp luật, người này có quyền cũng như trách nhiệm trong việc đại diện hay thay mặt cho doanh nghiệp thực hiện các hoạt động pháp lý như ký hợp đồng, tham gia tố tụng...

Công ty và người đại diện: Một thân nhưng hai người

Công ty nào cũng phải có người đại diện theo pháp luật. Song, người đại diện không đồng nhất với chính công ty. Vì như đã thấy, công ty đã được coi là một con người độc lập. Do đó, người đại diện chỉ được xem là người thay mặt, hoạt động dưới danh nghĩa của công ty. Bởi vậy, khi doanh nghiệp làm chuyện lầm lỗi với bên thứ ba (có thể là người tiêu dùng hay cơ quan thuế) dù là do hành vi tắc trách của người đại diện, thì trước hết công ty phải tự chịu trách nhiệm với người thứ ba, rồi sau đó ông mới có thể quay lại xử lý “chuyện nhà” với người đại diện.

Nhìn chung, từ khi nước ta có Luật Công ty đầu tiên, các quy định về người đại diện theo pháp luật ngày càng được quy định cụ thể và đi theo xu hướng tách bạch với trách nhiệm của doanh nghiệp. Từ chỗ chưa có điều khoản riêng biệt thì giờ đây Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020 đã ghi nhận vai trò và trách nhiệm của người đại diện khi điều hành doanh nghiệp. Điển hình như việc luật yêu cầu người đại diện phải thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.

Song, tinh thần và nguyên tắc ấy không hẳn đồng bộ trong công tác thực thi pháp luật. Đâu đó vẫn có trường hợp vai trò của người đại diện dường như được hiểu theo cách không tách rời với pháp nhân mà họ đại diện.

Người đại diện lâm cảnh “một cổ hai tròng”

Trở lại câu chuyện ở đầu bài, mặc dù đã nhiều lần làm văn bản giải trình với cơ quan thuế cũng như cơ quan đăng ký kinh doanh, kèm theo các biên bản họp và quyết định của hội đồng quản trị cho thấy ông đã rời công ty từ nhiều năm trước, song không có kết quả tích cực. Tới nay, ông V. vẫn có tên trong danh sách tạm hoãn xuất cảnh vì là người đại diện theo pháp luật của công ty.

Việc ông V. bị tạm hoãn xuất cảnh có lỗi của công ty vì đã không thực hiện đúng quy định với cơ quan đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người đại diện theo pháp luật dường như cũng cho thấy cơ quan có thẩm quyền đang cố gắng đồng nhất trách nhiệm của công ty với người đại diện.

Bởi như đã nói, công ty là một người độc lập. Do đó trách nhiệm của công ty cũng phải độc lập với người khác. Thực tế, chỉ có mình công ty mới là người nợ thuế chứ nào phải người đại diện theo pháp luật. Như tên gọi, họ chỉ là “đại diện”, là người thay mặt công ty làm ăn, bản thân họ không kinh doanh, cũng không trực tiếp thu lợi nhuận và do đó càng không có nợ thuế với tư cách cá nhân. Việc người đại diện có lỗi hay không trong quá trình điều hành thì đó cũng là chuyện nội bộ giữa họ và công ty.

Vậy nên nếu đứng từ nguyên tắc tách bạch vai trò của pháp nhân với người đại diện, thì biện pháp tạm hoãn xuất cảnh thật ra là không phù hợp. Đáng tiếc, cách tiếp cận này hiện nay dường như đang có xu hướng được áp dụng và làm không ít doanh nhân giật mình.

Chờ nghị quyết đi vào cuộc sống

Nguyên tắc tách bạch trách nhiệm giữa pháp nhân và cá nhân người đại diện - hay giản dị hơn, giữa doanh nghiệp và người điều hành - là một trong những trụ cột của việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty. Bỏ qua nó cũng là bỏ qua sự nhìn nhận công ty, một thành phần của nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, không khó để nhận thấy tại sao trong Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Ban Chấp hành Trung ương lại nhấn mạnh nhiệm vụ tuân thủ nguyên tắc tách bạch trách nhiệm giữa pháp nhân với cá nhân trong xử lý vi phạm: Khẳng định nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm giữa pháp nhân và cá nhân. Nghị quyết 68 đã thể hiện định hướng nhất quán của Nhà nước trong việc xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, khuyến khích doanh nhân tự tin đóng góp vào sự phát triển kinh tế.

Sự nhấn mạnh của Nghị quyết 68 cho phép chúng ta kỳ vọng rằng, rồi mai đây nguyên tắc này sẽ được cân nhắc tuân thủ chặt chẽ hơn và đặc biệt là sớm đi vào đời sống kinh doanh. Theo đó, các biện pháp cưỡng chế có thể được cân nhắc thiết kế theo hướng tập trung đúng vào chủ thể vi phạm là doanh nghiệp, như: trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản hay ngừng sử dụng hóa đơn. Tinh thần chung nên là ưu tiên sự tự nguyện thi hành, cho phép doanh nghiệp có cơ hội giải trình, thay vì ngăn chặn ngay khi có dấu hiệu vi phạm. Đối với người đại diện, chỉ nên áp dụng biện pháp cưỡng chế với cá nhân khi có cơ sở rằng họ cố ý vi phạm, trực tiếp thực hiện hành vi hay không hợp tác với cơ quan chức năng.

Nếu như chính sách đổi mới năm 1986 từng được đánh giá là bước chuyển mình mạnh mẽ, mở ra hướng đi mới tích cực cho nền kinh tế nước nhà thì Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân được kỳ vọng sẽ là một dòng nước mát lành, khơi nguồn cho khu vực tư nhân ra biển lớn và góp phần đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình với năm châu. Với nghị quyết được ban hành trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, mang theo nhiều kỳ vọng như vậy, chúng ta cũng có quyền mong chờ các cơ quan thực thi pháp luật sớm có sự thay đổi phù hợp, nhằm đảm bảo Nghị quyết cũng như những nguyên tắc pháp lý đi vào cuộc sống sớm hơn.

Nguyễn Ngô Thành Danh - Nguyễn Thái Hải Lâm

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/tach-bach-phap-nhan-nguoi-dai-dien-mot-nguyen-tac-de-kinh-te-tu-nhan-cat-canh/
Zalo