Sửa đổi Luật Xây dựng và cơ hội bứt phá cho chuyển đổi số
Cần chuyển tư duy xây dựng luật theo hướng không chỉ 'quản những gì đang có' sang 'quản những gì sẽ có' nhằm đảm bảo khi luật ra đời không bị lạc hậu, không phải sửa đổi nhiều lần, và đặc biệt không kìm hãm sự phát triển trong thời gian tồn tại của luật mà ngược lại mở đường cho sự phát triển.
Luật Xây dựng năm 2014, sửa đổi bổ sung năm 2020 đã đóng vai trò nền tảng trong việc hoàn thiện thể chế pháp lý và thúc đẩy phát triển bền vững ngành xây dựng Việt Nam, thiết lập một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy đủ, thống nhất và minh bạch để điều chỉnh toàn diện các hoạt động xây dựng, từ quy hoạch, thiết kế, cấp phép đến thi công và quản lý chất lượng công trình. Nhờ đó, công tác quản lý nhà nước về xây dựng từng bước được chuyên nghiệp hóa, góp phần giảm thiểu tình trạng xây dựng sai phép, không phép và nâng cao kỷ cương trật tự đô thị.

TS. Đặng Việt Dũng, Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam. Ảnh: VGP
Bên cạnh đó, Luật Xây dựng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng và bất động sản, nhờ các quy định rõ ràng về năng lực chủ thể, trình tự thủ tục, cũng như trách nhiệm pháp lý. Việc luật hóa các nguyên tắc quản lý chất lượng, an toàn kỹ thuật và phân định trách nhiệm giữa các bên liên quan cũng góp phần nâng cao chất lượng và tuổi thọ công trình. Có thể khẳng định rằng, Luật Xây dựng là một công cụ quan trọng giúp ngành xây dựng phát triển ổn định, đồng thời từng bước thích ứng với xu thế hội nhập và chuyển đổi số trong thời gian qua.
Mặc dù vậy trong quá trình áp dụng Luật Xây dựng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế cần được khắc phục. Đặc biệt, trong bối cảnh của cuộc Cách mạng 4.0, việc áp dụng tự động hóa và robot hóa trong tất cả các khâu từ thiết kế, tổ chức thi công đến vận hành khai thác, phát triển các sản phẩm xây dựng thông minh, có định danh đang trở thành các xu hướng công nghệ chủ yếu. Những yêu cầu mới trong đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính hướng đến một chính quyền kiến tạo trong mô hình chính quyền hai cấp đòi hỏi Luật Xây dựng hiện hành cần sớm được sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ngành xây dựng trong giai đoạn mới. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, việc sửa đổi Luật Xây dựng lần này tập trung vào một số nội dung như sau:
Thứ nhất, cần quán triệt sâu sắc nội dung của “bộ tứ trụ cột” gồm: Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân trong xây dựng luật.
Trong đó, nội dung dự án Luật Xây dựng sửa đổi cần thể hiện rõ vai trò quyết định của phát triển khoa học công nghệ, thể hiện được các yêu cầu chiến lược của hội nhập, dự án luật cần đảm bảo sự đồng bộ, tính khả thi, minh bạch, ổn định, lấy thực tiễn phát triển làm thước đo, đồng thời có tính dự báo cao, chủ động dẫn dắt sự phát triển và xem kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Luật Xây dựng là một công cụ quan trọng giúp ngành xây dựng phát triển ổn định, đồng thời từng bước thích ứng với xu thế hội nhập và chuyển đổi số trong thời gian qua. Ảnh: Trung Dũng
Thứ hai, chuyển tư duy xây dựng luật theo hướng không chỉ “quản những gì đang có” sang “quản những gì sẽ có” nhằm đảm bảo khi luật ra đời không bị lạc hậu, không phải sửa đổi nhiều lần, và đặc biệt không kìm hãm sự phát triển trong thời gian tồn tại của luật mà ngược lại mở đường cho sự phát triển. Với tư duy này trong sửa đổi Luật Xây dựng cần dự báo được các xu hướng thay đổi về mô hình quản lý, công nghệ xây dựng, quy mô dự án, trình độ phát triển của lực lượng lao động nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đủ rộng cho các hoạt động xây dựng.
Thứ ba, tận dụng tối đa hiệu quả áp dụng công nghệ, đẩy mạnh “tự động hóa” ở tất cả các khâu trong hoạt động xây dựng, nhất là trong lập, thẩm định, phê duyệt dự án, thiết kế xây dựng, cấp phép.
Để thực hiện được yêu cầu này, quy định của Luật Xây dựng cần đề cập đến các nội dung liên quan đến xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, yêu cầu bắt buộc áp dụng mô hình BIM trong tất cả các công trình, các giai đoạn từ khảo sát, thiết kế, xây dựng đến quản lý vận hành công trình, yêu cầu phát triển hạ tầng công nghệ bao gồm các nền tảng và giải pháp số như trí tuệ nhân tạo, học máy, bản sao số, phân tích dữ liệu lớn và các công nghệ tiên tiến khác.
Tận dụng công nghệ là yếu tố quyết định trong việc rút ngắn thời gian chuẩn bị dự án, rút ngắn thời gian thi công, tăng hiệu quả trong quản lý vận hành, đồng thời đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số của ngành Xây dựng.
Thứ tư, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra giám sát là yêu cầu then chốt nhằm nâng cao tính chủ động, linh hoạt của địa phương, rút ngắn thời gian phê duyệt, tăng tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và nâng cao khả năng sáng tạo từ cơ sở, đồng thời giảm tải cho cơ quan trung ương, thực hiện tốt phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Trong xây dựng dự án Luật Xây dựng sửa đổi cần quy định mở rộng thẩm quyền có các địa phương, chủ đầu tư đủ năng lực thực hiện các nội dung liên quan đến hoạt động xây dựng, các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, các nội dung có tính chất thay đổi thường xuyên được giao cho Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương quy định nhằm đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với thực tiễn hoạt động của mô hình chính quyền hai cấp.
Quy định các nội dung về giám sát, kiểm tra trên tinh thần hậu kiểm thông qua ứng dụng các công nghệ như hệ thống giám sát trực tuyến, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IOT). Quy định các nội dung nhằm phát huy vai trò của công tác tư vấn phản biện và giám định xã hội, các quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động xây dựng thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Sửa đổi Luật Xây dựng không chỉ giúp tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, minh bạch và phù hợp với xu thế chuyển đổi số, mà còn nâng cao năng lực quản lý của nhà nước, tăng tính chủ động cho địa phương. Ảnh: Znews
Thứ năm, đảm bảo sự đồng bộ, liên thông trong hệ thống luật.
Hiện nay giữa Luật Xây dựng và các luật như Luật Đầu tư công, Luật Quy hoạch, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai vẫn có những nội dung còn chồng lấn dẫn đến tình trạng một nội dung cần thực hiện nhiều lần theo yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt khác nhau, vẫn còn có các quy định thiếu thống nhất về quy trình, thủ tục dẫn đến sự phức tạp trong quá trình phê duyệt dự án, cấp phép xây dựng.
Sự thiếu đống bộ, thống nhất giữa các luật dẫn đến tình trạng kéo dài tiến độ dự án, ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải ngân vốn đầu tư, tiến độ đưa công trình vào sử dụng, làm tăng chi phí hành chính, phát sinh chi phí không chính thức, giảm sức cạnh tranh của môi trường đầu tư.
Việc sửa đổi Luật Xây dựng hiện hành có ý nghĩa then chốt trong bối cảnh ngành xây dựng Việt Nam đang đứng trước yêu cầu vừa đẩy nhanh tiến độ phát triển hạ tầng, vừa đảm bảo chất lượng, an toàn và tính bền vững của công trình. Sửa đổi luật không chỉ giúp tạo lập hành lang pháp lý đồng bộ, minh bạch và phù hợp với xu thế chuyển đổi số, mà còn nâng cao năng lực quản lý của nhà nước, tăng tính chủ động cho địa phương, thúc đẩy môi trường đầu tư hấp dẫn và hội nhập với thông lệ quốc tế. Đây là điều kiện tiên quyết để ngành xây dựng đóng góp mạnh mẽ hơn vào mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước./.
TS. Đặng Việt Dũng - Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam