Cát tự nhiên cạn dần, cát nhân tạo vẫn ì ạch
Cát tự nhiên ngày càng cạn kiệt, trong khi nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn tới thiếu cát triền miên, gây sốt giá còn kéo dài. Cát nhân tạo có nhiều lợi thế kỹ thuật, thân thiện môi trường. Nhưng sản phẩm chưa được thị trường đón nhận, cơ chế khuyến khích còn hình thức, khiến tiềm năng mãi 'nằm trên giấy'.
Cát tự nhiên khan hiếm, áp lực ngày càng lớn
Theo Bộ Xây dựng, nguồn cung cát tự nhiên hiện cả nước có 330 mỏ cát sông, trữ lượng 2,1 tỉ m³, chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu xây dựng cả nước và vài năm tới. Có tỉnh cho biết tới năm 2030, nhu cầu cát cho các công trình trong tỉnh lên tới 30 triệu m³, nhưng trữ lượng chỉ còn 18 triệu m³, thiếu hụt hơn 8 triệu m³. Nhiều tỉnh ở ĐBSCL, vốn là rốn khai thác cát sông, cũng trong tình trạng tương tự, phải tính tới cát biển nhưng cũng vướng nhiều vấn đề về môi trường, rửa cát.

Nguồn cát truyền thống ở ĐBSCL khai thác từ sông Tiền, sông Hậu giờ đang thiếu hụt vì nguy cơ gây sạt lở gia tăng. Ảnh: H.P
Trong khi đó, nhu cầu san lấp cho các dự án hạ tầng, đặc biệt là cao tốc Bắc – Nam, sân bay Long Thành, đường sắt cao tốc, các đoạn cao tốc khu vực… dự kiến lên tới hàng trăm triệu mét khối. Chính phủ đã cảnh báo nguy cơ thiếu hụt cát xây dựng từ nay đến 2030 và xác định phát triển cát nghiền (cát nhân tạo) là giải pháp quan trọng nhằm thay thế dần cát sông. Không cần cảnh báo, nhìn cơn sốt giá cát khắp cả nước từ đầu năm đến nay ai cũng hiểu, khi giá cát từ chỗ chỉ 200.000 đồng nay lên gần 1 triệu đồng/m³.
Cát nhân tạo được nghiền từ đá gốc hoặc phế thải xây dựng. Về kỹ thuật, loại cát này có hạt đồng đều, ít tạp chất, tăng độ bền và tuổi thọ bê tông. Cát nhân tạo cũng đã được chứng nhận phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và Việt Nam đã ban hành TCVN 9205:2012 – Cát nghiền cho bê tông và vữa. Ngoài giá thành thấp hơn, sản phẩm này giúp hạn chế khai thác sông, giảm sạt lở, bảo vệ hệ sinh thái – đúng tinh thần phát triển bền vững.
Có tiêu chuẩn, có chính sách nhưng…
TCVN 9205:2012 quy định chặt chẽ các chỉ tiêu kỹ thuật như thành phần hạt, hàm lượng bùn, đất sét, sunfat, clorua…; cùng phương pháp thử. Nếu sản xuất đúng chuẩn, cát nhân tạo có thể thay thế hoàn toàn cát tự nhiên trong bê tông và vữa.
Tuy nhiên, nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ chưa đầu tư đủ công nghệ, sản phẩm còn nhiều bụi mịn, hạt thoi dẹt, không ổn định chất lượng. Thị trường vì vậy thiếu niềm tin. Ngay cả những địa phương đi đầu như Thanh Hóa, Huế thì sản phẩm chủ yếu phục vụ nội bộ của chính doanh nghiệp, ít khi bán ra thị trường. Một số cơ sở buộc phải chuyển sang bán cát thô cho san lấp với giá rẻ.
Hiện có một số doanh nghiệp làm đường cao tốc xin được giấy phép khai thác đá núi trên đường cao tốc đi qua, để làm cát nghiền phục vụ cho chính dự án của mình.

Dây chuyền sản xuất cát nghiền tại mỏ đá Hùng Vương – Phước Tân, Bà Rịa - Vũng Tàu cũ.
Chính phủ đã định hướng từ năm nay, các công trình đầu tư công được khuyến khích sử dụng cát nghiền, tiến tới thay thế một phần cát tự nhiên. Có địa phương từng công bố chính sách hỗ trợ 30% chi phí đầu tư máy móc, công nghệ cho doanh nghiệp sản xuất cát nhân tạo. Nhưng đến nay không có doanh nghiệp nào tiếp cận. Thủ tục rườm rà, điều kiện khắt khe khiến ưu đãi “nằm trên giấy”.
Hệ quả là cát tự nhiên ngày càng khan hiếm, giá cao; còn cát nhân tạo được cho là có lợi ích nhưng lại khó tiêu thụ, doanh nghiệp không dám đầu tư.
Thế giới đã đi trước ra sao?
Không chỉ Việt Nam, nhiều nước cũng đối mặt khủng hoảng cát. Ấn Độ, quốc gia xây dựng nhiều bậc nhất châu Á, đã cấm khai thác cát sông tại nhiều bang và bắt buộc sử dụng cát nhân tạo trong công trình hạ tầng. Chính phủ nước này còn yêu cầu ngân hàng cho vay ưu đãi đối với dự án sản xuất cát nghiền. Nhờ đó, thị trường cát nhân tạo Ấn Độ đã đạt quy mô hàng trăm triệu tấn mỗi năm.
Trung Quốc từ hơn một thập niên trước đã thúc đẩy sản xuất cát nhân tạo từ đá vôi, granite. Chính quyền quy định công trình đầu tư công bắt buộc sử dụng ít nhất 30% cát nghiền. Các tập đoàn vật liệu xây dựng nhờ đó đầu tư dây chuyền công suất lớn, đưa sản phẩm vào tiêu chuẩn thiết kế.
Ở châu Âu, nhiều quốc gia ưu tiên tái chế phế thải xây dựng thành cát nhân tạo. Chính sách thuế rác thải cao khiến doanh nghiệp buộc phải đầu tư công nghệ nghiền và tái sử dụng, vừa tiết kiệm chi phí xử lý, vừa tạo thêm nguồn cát thay thế.
Điểm chung của các quốc gia này là chính phủ không chỉ ban hành tiêu chuẩn, mà còn tạo đầu ra ổn định bằng quy định bắt buộc, ưu đãi vốn và đặc biệt là sử dụng cát nhân tạo trong các dự án công.
Muốn “cất cánh” phải tạo niềm tin
Nếu muốn cát nhân tạo thoát cảnh ì ạch, cách tiếp cận cần khác đi, vì nếu như hiện hay, chục năm nữa, Việt Nam không còn cát sông, nhưng cát nhân tạo vẫn “rùa bò”. Chính sách hỗ trợ phải đơn giản hóa, mở rộng cho cả doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài hỗ trợ chi phí đầu tư, nên có cơ chế vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, bố trí quỹ đất sản xuất.
Nhưng, quan trọng hơn, Nhà nước nên làm mẫu qua các dự án công. Quy định bắt buộc tỷ lệ sử dụng cát nhân tạo trong công trình hạ tầng, chẳng hạn 30% ban đầu, tăng dần theo năm, sẽ tạo đầu ra ổn định, giúp thị trường quen dần. Đây chính là cách mà Ấn Độ và Trung Quốc đã làm để thị trường “chạy”.
Cát nhân tạo có thể là lời giải cho cả ba vấn đề: thiếu hụt nguồn cung, chi phí xây dựng leo thang, áp lực môi trường. Nhưng nếu cơ chế vẫn chậm, thị trường vẫn dè dặt, thiếu sự tham gia của các dự án đầu tư công thì tiềm năng này sẽ mãi “ngủ quên”.