Sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Bài 2- Đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới

Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tiết kiệm năng lượng tại Việt Nam, tháng 6/ 2010 Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/1/2011.

Qua gần 15 năm đi vào thực tiễn, Luật đã tạo dựng hành lang pháp lý, tháo gỡ rào cản, cụ thể hóa các quy định về biện pháp quản lý, kỹ thuật và chính sách thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong toàn bộ các lĩnh vực, tạo điều kiện triển khai đồng bộ hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả bền vững của đất nước.

Luật khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta coi sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNL TK&HQ) là chính sách được ưu tiên hàng đầu, giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế gắn với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã để lại dấu ấn tích cực đối với toàn xã hội trong lĩnh vực sử dụng năng lượng nói chung và tiết kiệm năng lượng nói riêng.

Theo các chuyên gia, Luật đã tạo dựng hành lang pháp lý, tháo gỡ rào cản, cụ thể hóa các quy định về biện pháp quản lý, kỹ thuật và chính sách thúc đẩy SDNL TK&HQ trong toàn bộ hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng dân dụng, chiếu sáng và sinh hoạt của cộng đồng, tạo điều kiện triển khai đồng bộ hoạt động sử dụng năng lượng TK&HQ bền vững của đất nước.

Ông Đặng Hải Dũng – Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) cho biết: Sau khi Luật được phê duyệt, Bộ Công Thương đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành 2 Nghị định, 2 Quyết định; 16 thông tư quy định suất mức tiêu hao năng lượng và các biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả trong các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, nông nghiệp, và các văn bản hướng dẫn tác nghiệp cho việc thực thi các quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được ban hành.

Cùng với đó là hơn 50 bộ Tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu áp dụng cho các nhóm thiết bị mục tiêu, kèm theo phương pháp thử nghiệm,

Ngoài các văn bản quy phạm pháp luật, các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 12 Quyết định về việc chỉ định 12 cơ sở thử nghiệm hiệu suất năng lượng và 16 văn bản hướng dẫn tác nghiệp đã được ban hành…

Các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức chính trị xã hội nhiệt tình ủng hộ và hăng hái vào cuộc tham gia các hoạt động hiệu quả năng lượng. Các hoạt động có tính lan tỏa rộng rãi như “Cuộc thi hộ gia đình tiết kiệm điện” do Hội phụ nữ các cấp tiến hành hoặc Chương trình “Giờ trái đất” được đông đảo hội thanh niên, sinh viên các trường đại học tham gia hưởng ứng…

Theo ông Đặng Hải Dũng, tác động của Luật đã được thể hiện rõ thông qua sự vào cuộc của các Bộ, ngành và địa phương. Kết quả tiết kiệm năng lượng đạt được ở giai đoạn 2011-2015 là rất lớn, tăng gần gấp đôi của giai đoạn trước (2006-2010) và góp phần tiết kiệm năng lượng cho cả 2 giai đoạn.

Báo cáo của Viện Năng lượng thực hiện năm 2016 cho thấy, giai đoạn 2011-2015 mức tiết kiệm thực tế đạt được là 5,65%, tương đương với 11.2 KTOE.

Có thể khẳng định, hệ thống các văn bản pháp luật về SDNL TK&HQ của nước ta hiện nay đã tương đối đầy đủ và đồng bộ, tạo nên khung pháp lý cần thiết cho việc triển khai hoạt động, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về SDNL TK&HQ, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về SDNL TK&HQ, giúp cải thiện hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời giúp bảo tồn nguồn năng lượng quốc gia, bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm các nguồn lực đầu tư, từng bước thực hiện các cam kết về bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu…

Tuy nhiên, sau 15 năm triển khai thi hành, đến nay đã bộc lộ bất cập cần phải rà soát để sửa đổi, bổ sung một số nội dung được quy định tại Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các luật liên quan để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn hoạt động sử dụng năng lượng trong các ngành công nghiệp sản xuất, chế biến các sản phẩm công nghiệp để ứng phó với các thách thức mới.

Trước xu hướng tăng cường kiểm soát phát thải khí nhà kính diễn ra trên toàn cầu đang gia tăng, có thể thấy các chính sách về môi trường của các thị trường Châu Âu, Mỹ… như quy định đánh thuế carbon của Liên minh Châu Âu áp dụng vào 2026, các quy định về hộ chiếu xanh đối với hàng dệt may, hay các quy định về truy vết cacbon đối với sản phẩm hàng hóa khi vào thị trường các nước Châu Á Thái Bình Dương và Thị trường Mỹ là các hàng rào kỹ thuật về môi trường của các thị trường.

Các quy định trên ngày càng dày đặc, tạo ra sức ép lớn lên các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của của Việt Nam như dệt may, da giày, nhựa, thép, điện, điện tử chế biến thủy sản… khi tham gia vào các thị trường Châu Âu và thị trường Mỹ, Trung Quốc…”- ông Đặng Hải Dũng chia sẻ.

Bên cạnh đó, việc huy động các nguồn lực cho chuyển đổi công nghiệp xanh, bền vững, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn năng lượng, tài nguyên tại Việt Nam còn thiếu và yếu không đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Việt Nam đã cam kết đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, cùng với việc chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ theo hướng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, Việt Nam cần phải xem xét sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả theo hướng tăng cường các quy định, chế tài mang tính bắt buộc thay vì khuyến khích thực thi các giải pháp tiết kiệm năng lượng.

Cùng với đó, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị cũng nêu rõ quan điểm sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội.

Đặc biệt Nghị quyết 55-NQ/TW đặt ra yêu cầu đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường hiệu quả năng lượng một cách đồng bộ, cụ thể như sau: "...Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính thị trường để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả".

Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 đã đề ra phát triển công nghệ năng lượng là một trong 10 định hướng phát triển, ứng dụng công nghệ giai đoạn tới, trong đó “Nghiên cứu ứng dụng, làm chủ các công nghệ năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghệ tích trữ năng lượng tiên tiến, pin nhiên liệu..." là một trong những nội dung nghiên cứu quan trọng…

Tuy nhiên, để tăng công tác sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vẫn cần phải có những chế tài, cơ chế chính sách khuyến khích, những rào cản cần được thảo gỡ để tiết kiệm năng lượng thực sự trở thành trụ cột quan trọng trong đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia

Do đó, sửa đổi luật cũng là nhằm quán triệt, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước giải quyết được các vấn đề của thực tiễn trong nước đặt ra, phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, loại bỏ vướng mắc, rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, tăng cường các cơ chế khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

Kỳ sau: Bài cuối - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tiết kiệm năng lượng

Thu Hường

Đồ họa: Hồng Thịnh

Thu Hường - Hồng Thịnh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/sua-doi-luat-su-dung-nang-luong-tiet-kiem-va-hieu-qua-bai-2-dam-bao-su-phat-trien-ben-vung-cua-dat-nuoc-trong-ky-nguyen-moi-378536.html
Zalo