Số phận nghiệt ngã của tàu cá Nhật Bản mắc kẹt trong vụ thử bom H của Mỹ - Kỳ cuối

Liều lượng mà mọi người tiếp xúc ở Fukushima không hề gần với những gì mà các hibakusha trải qua gần vụ nổ bom nguyên tử năm 1945 và không giống với liều lượng cực mạnh mà thủy thủ đoàn của tàu Lucky Dragon phải chịu.

MỐI NGUY HIỂM TỪ CHÍNH NỖI SỢ HÃI

Nạn nhân nhiễm phóng xạ từ thảm kịch tàu Lucky Dragon, Aikichi Kuboyama được chăm sóc tại bệnh viện. Ảnh: thebulletin.org

Nạn nhân nhiễm phóng xạ từ thảm kịch tàu Lucky Dragon, Aikichi Kuboyama được chăm sóc tại bệnh viện. Ảnh: thebulletin.org

Sáu tháng sau khi tàu Lucky Dragon trở về cảng, Aikichi Kuboyama – điện báo viên của tàu – qua đời. Nguyên nhân tử vong chính thức được công bố là do suy gan, căn bệnh ông đã mắc từ nhiều năm. Nhưng rõ ràng, phóng xạ đã làm suy yếu hệ miễn dịch của ông mới là thứ thực sự giết chết ông. Báo Asahi Shimbun đã đặt câu hỏi: “Liệu cái chết của một công dân nào đã từng bị dõi theo bởi nhiều ánh mắt đến thế? Đó là những ánh mắt tràn ngập phẫn nộ và phản kháng trước ‘tro bụi tử thần’".

Edward Teller, một trong những bộ óc thiên tài đã phát triển bom nhiệt hạch, lại lạnh lùng nhận xét rằng “thật vô lý khi làm quá lên về cái chết của một ngư dân". Rõ ràng ông ta thật ngạo mạn, hoàn toàn thiếu hiểu biết và sai lầm. Cái chết của Kuboyama thực sự là một biến cố lớn. Bức xạ hạt nhân là một sát thủ. (Những người còn lại trong đoàn thủy thủ đã sống sót nhưng phải chịu đựng các vấn đề sức khỏe suốt đời liên quan đến việc tiếp xúc lâu dài với liều lượng cao như vậy).

Nỗi sợ hãi vô hình và dai dẳng về bức xạ

Từ “sợ hãi” trong tiếng Nhật là "kyoufu". Trớ trêu thay, trong khi nỗi sợ hãi của thế giới về bức xạ phần lớn bắt đầu từ sự cố Lucky Dragon và cái chết của Kuboyama, thì một trải nghiệm khác của người Nhật – hai vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki – lại dạy chúng ta rằng bức xạ không nguy hiểm đến mức như ta vẫn nghĩ. Tổng cộng 86.600 hibakusha (nạn nhân thảm họa bom nguyên tử Hiroshima và Nagasaki) đã được theo dõi y tế thường xuyên suốt 71 năm, và được so sánh với 23.000 người Nhật không bị phơi nhiễm phóng xạ.

Kết quả nghiên cứu khiến nhiều người phải bất ngờ: tỷ lệ tử vong do ung thư gây ra bởi bức xạ trong số các nạn nhân bom nguyên tử, dù họ đã hứng liều cao ngay lập tức và tiếp tục sống trong môi trường nhiễm phóng xạ lâu dài, cũng chỉ dưới 1%. “Bệnh bom nguyên tử” chỉ giết chết 586 người trong số 86.600 người được theo dõi. Ở các liều thấp hơn – dù vẫn cao hơn rất nhiều so với những gì người dân tiếp xúc sau tai nạn hạt nhân Chernobyl năm 1986 hay Fukushima năm 2011 – không ghi nhận sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh so với nhóm đối chứng.

Con cái của các hibakusha cũng đã được nghiên cứu suốt nhiều thập kỷ, và không phát hiện di chứng di truyền qua nhiều thế hệ, dù các trẻ được sinh ra từ phụ nữ mang thai trong thời điểm bị phơi nhiễm có tỷ lệ dị tật bẩm sinh cao hơn. (Cuộc nghiên cứu kéo dài hơn 70 năm về các nạn nhân bom nguyên tử vẫn đang tiếp tục, do Quỹ Nghiên cứu Ảnh hưởng Bức xạ - Radiation Effects Research Foundation - đặt tại Hiroshima tiến hành.)

Dựa trên kiến thức khó khăn này, các chuyên gia có thể tự tin nói rằng, tỷ lệ tử vong do ung thư trong suốt cuộc đời tăng lên do thảm kịch Chernobyl sẽ chỉ cao hơn 3 đến 4% so với tỷ lệ tử vong do ung thư bình thường đối với nhóm dân số bị ảnh hưởng, theo một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2006. Thảm họa hạt nhân Fukushima không có khả năng làm tăng tỷ lệ mắc bất kỳ bệnh nào liên quan đến bức xạ lên trên mức bình thường. Liều lượng mà mọi người tiếp xúc ở Fukushima không hề gần với những gì mà các hibakusha trải qua gần vụ nổ năm 1945 và không giống với liều lượng cực mạnh mà thủy thủ đoàn của Lucky Dragon phải chịu.

Thế nhưng mặc dù thông tin từ các chuyên gia y tế rất đáng tin cậy, nỗi sợ bức xạ từ Fukushima vẫn tồn tại. Nỗi sợ này vẫn tồn tại ở hàng chục nghìn người đã phải sơ tán như một biện pháp phòng ngừa khi không ai biết điều gì sẽ xảy ra. Những người sơ tán đã không quay trở lại mặc dù liều lượng bức xạ ở hầu hết các khu vực đều đủ thấp để họ có thể làm như vậy một cách an toàn. Các gia đình và toàn bộ cộng đồng đã bị tàn phá. Tỷ lệ thất nghiệp, nghiện rượu, trầm cảm và các bệnh liên quan đến căng thẳng ở khu vực Fukushima cao hơn so với các khu vực khác của Nhật Bản. Giống như những hibakusha trước đó, một số trẻ em từ tỉnh Fukushima bị xa lánh và kỳ thị khi đi du lịch.

Nỗi sợ hãi vẫn tồn tại trên khắp Nhật Bản, nơi doanh số bán các sản phẩm nông nghiệp từ tỉnh Fukushima đang tụt hậu, lặp lại nỗi sợ hãi trước đây về cá ngừ bị nhiễm xạ từ tàu Lucky Dragon, mặc dù hiện tại chúng ta biết rằng rủi ro thực sự từ liều lượng vô cùng nhỏ xung quanh Fukushima gần như bằng không.

Vì nỗi sợ này, hàng trăm tỷ yên được chi để thu thập nước chảy qua khu vực nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Nước hấp thụ một phân tử phóng xạ gọi là tritium, mà tất cả các chuyên gia hàng đầu thế giới đều đồng ý rằng gây ra liều lượng thấp đến mức không gây nguy hiểm cho sức khỏe con người. (Một số đèn thoát hiểm màu đỏ và xanh lá cây trong rạp chiếu phim, được thiết kế để bật khi mất điện, chứa đầy tritium). Chính quyền Nhật Bản có thể sẽ thải toàn bộ nước bị nhiễm tritium đó ra đại dương. Mặc dù điều này không gây nguy hiểm cho môi trường, nhưng ý tưởng đó đang đối mặt với sự phản đối dữ dội, do nỗi sợ hãi quá mức về bất cứ điều gì liên quan đến từ "bức xạ".

Đám mây hình nấm từ vụ nổ hạt nhân "Chiến dịch Castle Bravo" ở Đảo san hô Bikini, Quần đảo Marshall. Ảnh: Không quân Hoa Kỳ

Đám mây hình nấm từ vụ nổ hạt nhân "Chiến dịch Castle Bravo" ở Đảo san hô Bikini, Quần đảo Marshall. Ảnh: Không quân Hoa Kỳ

Cuối cùng, "nỗi sợ hãi bức xạ" vẫn tồn tại trên khắp Nhật Bản và những nơi khác dưới hình thức phản đối năng lượng hạt nhân. Năng lượng hạt nhân không tạo ra khí nhà kính, góp phần gây ra biến đổi khí hậu, cũng không tạo ra ô nhiễm dạng hạt, gây bệnh hoặc giết chết hàng chục triệu người trên khắp thế giới mỗi năm.

Sau khi đóng cửa đội tàu điện hạt nhân của mình vì lo sợ bức xạ sau thảm họa Fukushima, Nhật Bản hiện đang đốt nhiều nhiên liệu hóa thạch hơn để sản xuất điện, góp phần gây ra các mối đe dọa sức khỏe ngắn hạn và dài hạn lớn hơn nhiều so với những mối đe dọa do bức xạ gây ra. (Đức cũng vậy, và một số tiểu bang của Mỹ cũng vậy).

Do lo sợ bức xạ, một số người Nhật không muốn cho phép TEPCO, công ty điện lực, khởi động lại tổ hợp hạt nhân Kashiwazaki Kariwa của họ, nơi đã chi hàng triệu đô la để nâng cấp an toàn kể từ Fukushima. Nếu không có doanh thu từ nhà máy đó, TEPCO phải tiếp tục vay tiền của người nộp thuế Nhật Bản để trả cho việc dọn dẹp Fukushima, một nỗ lực trị giá hàng tỷ đô la nhằm thu giữ vật liệu phóng xạ mà các chuyên gia đồng ý là không gây ra mối đe dọa nào đối với sức khỏe cộng đồng hoặc môi trường.

Thực tế là nỗi sợ hạt nhân sâu sắc vẫn tồn tại trong một thời gian dài, mặc dù có bằng chứng chắc chắn rằng rủi ro không lớn như chúng ta nghĩ vào năm 1954. Nhà trưng bày con tàu "Daigo Fukuryu Maru" giúp chúng ta hiểu các sự kiện và bối cảnh lịch sử đã tạo ra "nỗi sợ bức xạ" và lý do tại sao nỗi sợ này lại ăn sâu đến vậy. Bảo tàng giúp chúng ta nhận ra rằng nỗi sợ có nguồn gốc cảm xúc sâu sắc như vậy không dễ dàng vượt qua chỉ bằng cách xem xét khách quan các sự kiện.

Người phụ trách Nhà triển lãm Daigo Fukuryu Maru, bà Ichida Mari cho biết, vẫn còn rất nhiều lo lắng về Fukushima, nhưng mọi thứ dường như đang thay đổi. “Lúc đầu sau thảm họa Fukushima, mọi người cảm thấy sợ hãi nhiều hơn về nó”, bà nói, “nhưng trong ba năm qua, nỗi sợ hãi và lo lắng đó đã giảm đi, đồng thời cũng có cảm giác hiểu biết nhiều hơn về bức xạ”.

Thu Hằng/Báo Tin tức và Dân tộc (Theo The Bulletin of the Atomic Scientists)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/giai-mat/so-phan-nghiet-nga-cua-tau-ca-nhat-ban-mac-ket-trong-vu-thu-bom-h-cua-my-ky-cuoi-20250607213305548.htm
Zalo