Ra mắt bản đồ định vị doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam
Theo Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA), sản phẩm bản đồ VINASA Tech Map sẽ giúp định vị các doanh nghiệp trên bản đồ công nghệ số Việt Nam.
Thông tin trên được đưa ra tại Chương trình Top 10 và bản đồ doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam năm 2025 do Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) tổ chức. Chương trình năm nay tiếp tục tôn vinh các doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc và lần đầu tiên cho ra mắt Bản đồ doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam (VINASA Tech Map).
Các hoạt động chính của VINASA Tech Map bao gồm định vị doanh nghiệp trong hệ sinh thái công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh; kết nối với mạng lưới đầu tư, quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo; tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường quốc tế.

Chương trình Top 10 và bản đồ doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam năm 2025. Ảnh: Bộ Thông tin và Truyền thông.
Để định vị các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, từ năm nay VINASA cũng sẽ áp dụng mô hình đánh giá theo 2 trục chính là tầm nhìn và khả năng thực thi. Trong đó, về tầm nhìn, VINASA Tech Map thể hiện định hướng phát triển và khả năng đổi mới trong tương lai, bao gồm chiến lược phát triển dài hạn, năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng mở rộng thị trường và tác động đến ngành công nghệ số.
Về khả năng thực thi, đánh giá mức độ triển khai và áp dụng sản phẩm, dịch vụ vào thực tế, bao gồm tăng trưởng kinh doanh (doanh thu, thị phần, số lượng khách hàng), chất lượng sản phẩm/dịch vụ, năng lực triển khai và mức độ hài lòng của khách hàng.
Dựa trên hai trục đó doanh nghiệp được phân vào 4 nhóm, đó là nhóm thực lực (doanh nghiệp có năng lực triển khai mạnh, tập trung vào hiệu quả thực tế); nhóm đầu tàu (doanh nghiệp dẫn dắt thị trường, vừa có tầm nhìn xa vừa có khả năng thực thi tốt); nhóm chuyên biệt (doanh nghiệp có thế mạnh trong lĩnh vực cụ thể, phát triển theo hướng chuyên sâu) và nhóm khai phá (doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tập trung vào công nghệ mới nhưng khả năng thực thi còn đang phát triển).
Qua các tiêu chí này, bản đồ sẽ cung cấp dữ liệu toàn diện về hệ sinh thái doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, phân loại theo lĩnh vực, quy mô, năng lực đổi mới và tiềm năng phát triển.
VINASA kỳ vọng, hệ thống đánh giá này sẽ giúp doanh nghiệp xác định vị thế trong từng lĩnh vực chuyên biệt cũng như trên bản đồ công nghệ số Việt Nam. Từ đó xây dựng và thực hiện các kế hoạch chiến lược để củng cố tiềm lực, gia tăng năng lực cạnh tranh, hướng tới phát triển bền vững.
Về phía cơ quan quản lý cũng sẽ có thêm dữ liệu khoa học để hoạch định chính sách hỗ trợ. Với các nhà đầu tư và đối tác quốc tế, đây cũng là cơ sở để tiếp cận các doanh nghiệp tiềm năng tại Việt Nam nhanh chóng và chính xác hơn.
Phát biểu tại sự kiện diễn ra chiều 27/2, bà Nguyễn Thị Thu Giang, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký VINASA nhận định: “Việc ra mắt bản đồ doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam không chỉ giúp doanh nghiệp định vị được năng lực của mình mà còn tạo nền tảng để mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư và tiếp cận các thị trường mới. Đây cũng là cơ hội để cộng đồng doanh nghiệp công nghệ Việt Nam khẳng định dấu ấn trên bản đồ công nghệ toàn cầu”.
Trong tương lai, bản đồ doanh nghiệp công nghệ số sẽ được hoàn thiện hơn, phản ánh đầy đủ và toàn diện các doanh nghiệp thuộc nhiều phân khúc khác nhau, không chỉ giới hạn trong Top 10.
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, trong năm 2024, doanh thu toàn ngành thông tin và truyền thông ước đạt 4.243.984 tỷ đồng, tăng 13,2% so với năm 2023. Trong đó, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số (ICT) đóng góp 3.878.296 tỷ đồng, chiếm hơn 91% doanh thu toàn ngành và 11% GDP.
Tổng số doanh nghiệp công nghệ số đang hoạt động tại Việt Nam đạt 54.500 doanh nghiệp, tăng 16% so với năm trước. Đáng chú ý, kim ngạch xuất khẩu phần cứng - điện tử ước đạt 132,3 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2023, chiếm 32% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của quốc gia.