Quán trà ven đường
Uống trà hoặc thưởng trà là một hình thức văn hóa từ thời xa xưa. Theo Trà kinh của Lục Vũ, phát hiện trà có từ thời Thần Nông. Không lạ gì, thiền tăng thích uống trà để tâm hồn tươi tỉnh. Chén trà Triệu Châu, bánh hồ Vân Môn là câu nói quen thuộc cũng gợi lên những suy tư thao thức.
Uống trà sáng
Nhà sư
Im lặng như hoa cúc
(Basho)
Uống trà hoặc thưởng trà là một hình thức văn hóa từ thời xa xưa. Theo Trà kinh của Lục Vũ, phát hiện trà có từ thời Thần Nông. Không lạ gì, thiền tăng thích uống trà để tâm hồn tươi tỉnh. Chén trà Triệu Châu, bánh hồ Vân Môn là câu nói quen thuộc cũng gợi lên những suy tư thao thức. Suốt quá trình tu tập, có những nỗi băn khoăn, dù uống trà hay không uống trà cũng chẳng thể bỏ qua.
Thiền sư Đại Tùy Pháp Chân, một thời tham học trong hội Quy Sơn. Sư thanh bần khổ hạnh, nghiên cứu tột cùng yếu chỉ Phật tổ, ở trong chúng không tỏ ra đặc biệt. Một hôm, Quy Sơn hỏi, Xà-lê khi ở nơi lão tăng chưa từng hỏi một câu. Sư thưa: Dạy con nhằm chỗ nào mở miệng? Quy Sơn: Sao chẳng hỏi thế nào là Phật? Sư lấy tay ra dấu bịt miệng Quy Sơn. Ngài khen: Ông thật được tủy. Từ đó vang danh. Về sau, Sư trở về nước Thục, ở bên đường dựng quán nấu trà cho người, ba năm. Chén trà Đại Tùy lặng lẽ, một bề in dấu tâm thanh tịnh. Người được nếm, không biết nói gì, có thể cuốn áo theo Sư tham học.
Học trò của Hòa thượng Ân sư, mê mấy câu chuyện thiền, theo thầy lên núi học đạo. Bụi phố thị phủi chưa xong, xuống Viên Chiếu mở thiền trang, Hòa thượng thương con khờ, đem chén trà Phật tổ dạy cho uống. Ngày qua ở trong rừng, lúc rảnh được chút nào cũng thích đọc sách thiền. Nhờ vậy mà phấn phát tinh thần, lúc nào cũng vui cười, có khóc cũng chẳng thay đổi được gì.
Nhớ lại một mùa trăng tháng Tư, lúc ấy trên núi viện Bát Nhã dọn nhà cũ, có cây kèo cột, có tôn cũ, cửa sổ cửa cái... tất cả mọi thứ trong nhà đều đưa xuống Viên Chiếu để xây tổ mới. Xe chở đồ bỏ xuống ở đầu đường, một mớ hỗn độn rồi chị em ở trong rừng kéo nhau ra khiêng vác. Không có một phương tiện cơ giới nào, chỉ dùng tay khiêng, chân hì hục đi. Đường rừng chiều không có người, chỉ có mấy Ni cô lặng lẽ khiêng vác, làm thinh đi với nhau, sức đâu mà nói chuyện. Gần bên Viên Chiếu có nhà của chú Tuệ, cũng là dân thành phố đi khai hoang, mấy anh chị em rủ nhau khiêng vác phụ.
Khiêng hết của cải cũng đến tối, một cục gạch cũng không bỏ, dọn sạch như kiến không chừa chút gì. Trăng sáng soi một khoảng sân, khiêng bàn ra ngoài, dọn nồi bún nấu rau muống chiêu đãi. Nhà Tuệ trầm trồ, không khách sáo, mấy cô ngồi vào bàn mời nhau, ai cũng đói bụng quá rồi. Không có đèn, chỉ cắm vài cây đèn cầy để thấy có miếng rau trong nồi. Vừa ăn vừa xuýt xoa mừng, công việc hoàn tất, có thêm của để dành. Và ai đó, chợt nhìn trăng, chợt nhớ ra, kêu lên “Hôm nay là Phật đản”. Ô! Phật đản sinh, mình ở trong rừng ăn mừng một nồi bún rau muống.
Thật là kỷ niệm, rất lâu sau, gặp Tuyết vẫn nhớ lại chuyện được ăn tối dưới trăng rừng. Tuyết nói, có khi con về tới chùa, đứng bên nay nhìn qua nhà chảy nước mắt.
Trong rừng, có nhiều chuyện cũng buồn mà cũng vui. Cái trại đầu tiên của Viên Chiếu không hàng rào, cửa lá lung lay như răng muốn rụng. Huynh đệ ngủ say, không do dự vì khoảng rừng chung quanh. Có đêm, đang ngủ bỗng nghe tiếng xe bò lụp cụp trước sân, tiếng con bò hục hặc vùng vằng. Huynh đệ lục đục chạy ra, thấy chủ xe mới mở mắt, nhảy xuống, phân bua:
- Tui ngủ quên, vô rừng chở củi, đi ban đêm tránh kiểm soát. Con bò nhớ đường đi một mình, kéo xe về tới nhà. Tui ỷ y nằm ngủ. Có bữa nó kéo tới trụ sở xã rồi nằm ở đó.
Mấy cô cười, con bò này muốn đóng thuế.
- Bữa nay nó quen đường, ngang chùa quẹo vô đó. Nó khát nước.
Mấy cô lật đật xách xô múc nước. Bò uống ục ục không kêu một tiếng. Còn cho thêm nước dội lên mình, mát mẻ. Xong xuôi, tiễn xe bò, tiễn mấy cây rừng, và chú chủ xe cười hoan hỷ. Một thời, đoạn đường ngang qua thiền viện, chỉ có xe bò đủng đỉnh đi qua, người đánh xe nếu là thanh niên sẽ hát vài câu vọng cổ, nếu là lớn tuổi có khi nằm khoèo trên xe, để con bò tự đi theo đường mòn.
Có quán trà ở đây. Sẽ mời được ai?