Phát triển nguồn nhân lực cho xây dựng, vận hành đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam

Đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) Bắc - Nam là dự án trọng điểm quốc gia, có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phát triển công nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo quá trình đầu tư, vận hành, khai thác hiệu quả và từng bước đưa đường sắt tốc độ cao trở thành động lực phát triển của nền kinh tế.

1. Chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng quá trình xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống ĐSTĐC

Mục tiêu của chiến lược phát triển nguồn nhân lực ĐSTĐC Bắc - Nam là nhằm chuẩn bị sẵn sàng nhân lực đáp ứng công tác thiết kế, thi công và quản lý, khai thác, vận hành tuyến ĐSTĐC Bắc - Nam, đồng thời chủ động tiếp nhận, từng bước làm chủ từng phần công nghệ xây dựng, công nghiệp, vận hành ĐSTĐC, qua đó tối đa hóa hiệu quả kinh tế - xã hội, trực tiếp nhất là lợi ích tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động trong giai đoạn thi công, hàng chục ngàn lao động trong giai đoạn vận hành và góp phần đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ cũng như phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ. Như vậy, yêu cầu nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng đủ số lượng, đúng thời điểm mà còn phải là nguồn nhân lực chất lượng cao về chuyên môn và kỹ năng.

Theo đó, phương án nguồn nhân lực phát triển ĐSTĐC Bắc - Nam được xây dựng trên cơ sở đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực ngành Đường sắt cùng hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam; học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia có ĐSTĐC trên thế giới và cụ thể phương án phát triển ĐSTĐC Bắc - Nam.

Với mục tiêu, định hướng phát triển tuyến ĐSTĐC Bắc - Nam từ ga Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm được đầu tư với tốc độ thiết kế 350km/h; chiều dài khoảng 1.541 km; đường đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa. Tiến độ dự kiến, trình Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2024, khởi công các dự án năm 2027; phấn đấu hoàn thành đầu tư toàn tuyến năm 2035.

Đánh giá chung nguồn nhân lực ngành đường sắt:

Nhân lực đường sắt chỉ chiếm khoảng 3% tổng nhân lực của ngành GTVT và không có sự biến động lớn về quy mô cũng như trình độ trong suốt thời gian vừa qua do hệ thống đường sắt cơ bản ổn định trong một thời gian dài.

Nguồn nhân lực khối tư vấn và xây dựng chuyên ngành đường sắt có sự sụt giảm do không có dự án đầu tư mới trong nhiều năm. Riêng nguồn nhân lực khai thác, vận hành đường sắt cùng với quá trình chuyển đổi mô hình kinh doanh của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt về trình độ và chất lượng, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Các ngành học chuyên ngành đường sắt truyền thống chưa thu hút người học. Một số chuyên ngành kỹ thuật cần thiết phục vụ công nghệ ĐSTĐC như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, điện, điện tử, thông tin, tự động hóa… có chất lượng đào tạo khá tốt, song đây cũng là các chuyên ngành có nhu cầu tuyển dụng cao, tỷ lệ sinh viên khá giỏi ra trường có việc làm đãi ngộ tốt rất cao.

Có thể nói, nguồn nhân lực đường sắt hiện nay của Việt Nam mới chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu quản lý, khai thác, vận hành hệ thống đường sắt hiện hữu. Do đó, cần có sự chuẩn bị chu đáo, kỹ càng để sẵn sàng đáp ứng quá trình xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống ĐSTĐC...

2. Kinh nghiệm quốc tế

Các quốc gia trên thế giới chia làm ba nhóm: Thứ nhất, nhóm tự phát triển và làm chủ hoàn toàn công nghệ về chu đáo, kỹ càng để sẵn sàng đáp ứng quá trình xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống ĐSTĐC gồm Nhật Bản, Pháp, Đức và Ý. Thứ hai, nhóm nhận chuyển giao sau đó làm chủ công nghệ như các nước có nền công nghiệp phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc và Tây Ban Nha. Thứ ba, nhóm các quốc gia nhận chuyển giao và làm chủ công nghệ vận hành, bảo trì, từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, khuyến khích phát triển công nghiệp để từng bước làm chủ công nghệ. Nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều quốc gia thuộc cả ba nhóm này, nhận thấy để sẵn sàng cho việc đầu tư, phát triển chu đáo, kỹ càng để sẵn sàng đáp ứng quá trình xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống ĐSTĐC, tất cả các quốc gia đều có chương trình quốc gia phát triển về nguồn nhân lực, công nghiệp đường sắt và có thể rút ra năm bài học chung về phát triển nhân lực đường sắt tốc độ cao như sau:

Thứ nhất, cần có chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chu đáo, kỹ càng để sẵn sàng đáp ứng quá trình xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống ĐSTĐC ngay khi quyết định đầu tư.

Thứ hai, xây dựng, phát triển nguồn nhân lực phải xuất phát và gắn liền với chuyển giao và làm chủ công nghệ chu đáo, kỹ càng để sẵn sàng đáp ứng quá trình xây dựng, vận hành, khai thác hệ thống ĐSTĐC; xác định các viện nghiên cứu, tập đoàn đầu ngành trong nước tham gia sâu vào quá trình tiếp nhận đào tạo, chuyển giao xuyên suốt quá trình.

Thứ ba, sớm thành lập cơ quan quản lý ĐSTĐC; tổ chức đào tạo cán bộ của cơ quan quản lý ĐSTĐC, đảm bảo đủ năng lực xây dựng, thẩm định, phê duyệt các tiêu chuẩn, quy chuẩn, thiết kế, hợp đồng bao gồm cả các yêu cầu về an toàn, xã hội, môi trường.

+ Trung Quốc: Bài học về phát nguồn nhân lực chiến lược, dài hạn, gắn liền với tiếp nhận, chuyển giao, nghiên cứu phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ thi công ĐSTĐC.

Dù bắt đầu muộn hơn các nước phát triển hơn 40 năm nhưng ĐSTĐC của Trung Quốc phát triển thần tốc. Tính đến hết năm 2023, Trung Quốc đã vận hành hơn 42.000km, chiếm hơn 70% tổng số km ĐSTĐC thế giới. Đây là mạng lưới ĐSTĐC dài nhất thế giới, chuyên phục vụ vận chuyển hành khách với tốc độ 250 - 350 km/h.

Trung Quốc phát triển ĐSTĐC theo hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là tiếp nhận và chuyển giao khoa học kỹ thuật, công nghệ từ các nước phát triển như: Alstom, Siemens, Bombardier và Kawasaki Heavy Industries; Giai đoạn sau, Trung Quốc đạt được mức độ tự chủ một phần trong việc chế tạo thế hệ tàu tốc độ cao tiếp theo bằng cách phát triển năng lực trong nước để sản xuất các bộ phận quan trọng và cải tiến thiết kế của nước ngoài. Từ 2010, hầu như toàn bộ hạ tầng ray đều đã do Trung Quốc đảm nhận. Đến nay, ray, công trình phụ trợ, thông tin tín hiệu, phần mềm điều hành, thiết kế ga và cả đoàn tàu đều đã do Trung Quốc tự phát triển, chỉ còn sử dụng một số bộ phận của nước ngoài.

Trung Quốc đặt mục tiêu chiến lược "Cải tạo đường sắt bằng nhân tài" và xây dựng đội ngũ nhân tài đường sắt chuyên nghiệp, chất lượng cao. Để thực hiện mục tiêu này, từ năm 2017, Trung Quốc đã triển khai chương trình "Trăm triệu nhân tài". Tới nay, chương trình đã đã huy động nguồn lực từ 25 trường đại học hàng đầu, 11 viện khoa học, 51 phòng thí nghiệm quốc gia, 500 công ty và 40 viện nghiên cứu Chính phủ với sự tham gia của hơn 10.000 kỹ sư, nhà nghiên cứu và kỹ thuật viên.

+ Hàn Quốc: Bài học về chiến lược nhân lực đi từ tiếp nhận chuyển giao từ nước ngoài, đến làm chủ, tự phát triển công nghệ trong nước và vươn tới chuyển giao công nghệ ra nước ngoài.

Năm 1989, Chính phủ Hàn Quốc quyết định chủ trương xây dựng đường sắt cao tốc Seoul - Busan, dài 412 km để giải quyết tình trạng tắc nghẽn giao thông trên hành lang kinh tế này. Tuyến đường được khởi công năm 1992 và tháng 4/2004, Hàn Quốc chính thức đưa đoạn tuyến đầu tiên từ Seoul đến Daegu vào khai thác, trở thành quốc gia thứ 5 trên thế giới vận hành ĐSTĐC. Hàn Quốc lựa chọn đầu tư đoàn tàu đầu tiên là TGV Réseau của Alstom (Pháp), với tốc độ kỹ thuật 350km/h và tốc độ lữ hành 305 km/h. Bằng đầu tư nguồn lực chiến lược, Hàn Quốc đã nhanh chóng làm chủ công nghệ và tự phát triển được tàu tốc độ cao HSR-350x đạt tốc độ thử nghiệm 352 km/h và đưa vào khai thác ngay từ tuyến ĐSTĐC thứ 2, KTX Sancheon. Đến năm 2013, Hàn Quốc đã phát triển thành công tàu KTX thế hệ tiếp theo, HEMU-430X, đạt 421,4 km/h, đưa Hàn Quốc trở thành quốc gia thứ tư trên thế giới sau Nhật Bản, Pháp và Trung Quốc phát triển tàu tốc độ cao chạy trên đường sắt thông thường với tốc độ trên 420 km/h.

3. Quan điểm, mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ĐSTĐC

3.1. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực ĐSTĐC

- Một là phát triển ĐSTĐC là tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thân thiện môi trường.

- Hai là chủ động tối đa nguồn nhân lực nhằm xây dựng tuyến ĐSTĐC phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, bảo đảm hiện đại, đồng bộ, có tầm nhìn dài hạn, đáp ứng nhu cầu vận tải; cải tạo, nâng cấp khai thác hiệu quả tuyến đường sắt Bắc - Nam hiện hữu.

- Ba là thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị trong việc huy động tối đa các nguồn lực để phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác đầu tư, xây dựng, vận hành đồng bộ toàn tuyến.

- Bốn là xây dựng các cơ chế, chính sách để đẩy nhanh tiến độ đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ dự án ĐSTĐC, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực đảm nhận làm chủ công tác vận hành, bảo trì và từng bước làm chủ sản xuất các thiết bị, phương tiện.

3.2. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ĐSTĐC

Mục tiêu chung: Đảm bảo kịp thời chất lượng, số lượng nguồn nhân lực phục vụ đầu tư xây dựng và khai thác vận hành ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam.

Mục tiêu cụ thể: Đào tạo mới và kết hợp đào tạo bổ sung khoảng 200.000 - 250.000 lao động phục vụ đầu tư xây dựng ĐSTĐC. Trong đó, ưu tiên đào tạo 500 cán bộ quản lý nhà nước, 700 nhân lực quản lý dự án, 110 giảng viên và 13.880 nhân lực khai thác, vận hành dự án.

4. Dự báo nhu cầu nhân lực xây dựng, vận hành ĐSTĐC Bắc - Nam

4.1. Nhu cầu nhân lực quản lý dự án

Để triển khai đầu tư theo phương án đề xuất, sẽ yêu cầu huy động nhân lực quản lý dự án ngay sau khi thông qua chủ trương đầu tư. 100% nhân sự trực tiếp thực hiện công tác quản lý đều yêu cầu có trình độ đại học trở lên. Trong đó, tỷ lệ nhân lực chuyên ngành đường sắt và ĐSTĐC (công trình, năng lượng điện, thông tin tín hiệu, công nghệ thông tin đường sắt và ĐSTĐC...) chiếm khoảng 30%. 30% nhân lực quản lý dự án sẽ yêu cầu trình độ trên đại học, 40 - 50% nhân lực quản lý dự án chuyên ngành đường sắt và ĐSTĐC cần có trình độ trên đại học.

4.2. Nhu cầu nhân lực tư vấn

Nhân lực tư vấn khảo sát, thiết kế và giám sát thi công được huy động theo tiến độ dự án và cao điểm nhất vào năm 2026 - 2028, giai đoạn triển khai công tác thiết kế tổng thể kỹ thuật với số lượng khoảng 1.100 - 1.300 nhân sự.

Tư vấn là nhóm nhân lực có yêu cầu cao nhất về trình độ và chuyên ngành. 100% nhân sự có trình độ đại học trở lên, trong đó 30% - 40% yêu cầu trình độ trên đại học. Theo kinh nghiệm quốc tế, để định hướng, dẫn dắt tiếp cận công nghệ và tiếp nhận chuyển giao các công việc giai đoạn khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, lực lượng tư vấn nên có khoảng 3% - 5% nhân lực có trình độ tiến sĩ chuyên ngành hạ tầng, đoàn tàu, cấp điện, thông tin tín hiệu, công nghệ thông tin ĐSTĐC.

Khoảng 90% nhân lực tư vấn yêu cầu các chuyên ngành kỹ thuật, 10% chuyên môn kinh tế, tài chính, thể chế, môi trường, xã hội... Trong đó, 2 chuyên ngành yêu cầu số lượng lao động lớn nhất là chuyên ngành xây dựng (36%) và quản lý xây dựng (26%). Yêu cầu tư vấn chuyên môn chuyên ngành đường sắt chiếm khoảng 35% - 40% tổng số nhân lực; trong đó, có khoảng 3% - 5% nhân sự thuộc các chuyên môn rất đặc thù như: Hàng không vũ trụ, vật liệu, công nghiệp ĐSTĐC…

4.3. Nhu cầu nhân lực xây dựng

Nhân lực xây dựng là nhóm có nhu cầu lớn nhất trong suốt quá trình triển khai đầu tư xây dựng, khai thác vận hành dự án với nhu cầu lúc cao điểm lên đến khoảng 180.000 - 240.000 nhân sự.

Khoảng 90% - 95% nhân lực xây dựng là công nhân kỹ thuật và phần lớn thuộc các nhóm nghề phổ thông, đang được đào tạo rộng rãi như xây dựng, nề, bê tông, điện.... Số lượng công nhân kỹ thuật yêu cầu chuyên môn chuyên ngành đường sắt và ĐSTĐC chỉ khoảng 3% - 5% như hàn, kết cấu thép...

Tuy chỉ khoảng 5 - 10% nhân lực xây dựng yêu cầu trình độ đại học trở lên, dẫu vậy thì cao điểm cũng cần huy động tới 15.000 - 20.000 kỹ sư, chủ yếu là kỹ sư xây dựng, làm việc trên các công trường dự án, trong đó khoảng 20 -30% kỹ sư chuyên ngành đường sắt và ĐSTĐC.

4.4. Nhu cầu nhân lực vận hành, khai thác

Khác với nhân lực giai đoạn xây dựng chỉ có tính chất ngắn hạn trong giai đoạn thi công, nhân lực vận hành, khai thác là việc làm dài hạn, ổn định. Nhu cầu nhân lực vận hành, khai thác ĐSTĐC Bắc - Nam phụ thuộc rất lớn vào quy trình, công nghệ và công suất khai thác.

Nghiên cứu tiền khả thi ĐSTĐC Bắc - Nam và Đề án tái cơ cấu Đường sắt Việt Nam đã xây dựng vị trí việc làm và dự kiến nhân lực vận hành, khai thác ĐSTĐC Bắc - Nam đến năm 2035, cần 13.880 nhân sự vận hành, khai thác toàn tuyến ĐSTĐC Bắc - Nam.

Về trình độ, 20% nhân lực khai thác, vận hành yêu cầu trình độ đại học trở lên, trong đó thạc sỹ cần khoảng 2% và tiến sĩ cần khoảng 0,2%. 80% là lực lượng lao động trực tiếp, chỉ yêu cầu trình độ cao đẳng hoặc trung cấp.

Cơ cấu nhân lực phân ngành gồm 76% nhân lực làm công tác quản lý, bảo trì hệ thống hạ tầng, 14% nhân lực quản lý, bảo trì đoàn tàu, 8% nhân lực làm công tác vận tải, 1% nhân lực làm việc tại trung tâm điều hành vận tải và 1% làm công tác quản lý kinh doanh.

5. Nhu cầu và phương án đào tạo nhân lực xây dựng, vận hành ĐSTĐC Bắc - Nam

5.1. Nhu cầu và phương án đào tạo nhân lực quản lý nhà nước

Cần có kế hoạch đào tạo trang bị kiến thức, nghiệp vụ về phát triển và vận hành ĐSTĐC cho công chức, viên chức thuộc cơ quan, đơn vị đảm nhận các công tác quản lý nhà nước liên quan đến phát triển và khai thác ĐSTĐC Bắc - Nam. Các đơn vị chính cần được đào tạo gồm: Cục Đường sắt Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Cục Quản lý Đầu tư xây dựng, các vụ tham mưu: Kế hoạch - Đầu tư, Vận tải, Kết cấu - Hạ tầng, Khoa học - Công nghệ và Môi trường, Pháp chế, Tài chính, Tổ chức Cán bộ và một số bộ, ngành, cơ quan liên quan…

Cán bộ, công chức thuộc khối quản lý nhà nước cần được đào tạo sớm nhất để có đủ năng lực xây dựng kế hoạch, đánh giá, thẩm định, phê duyệt dự án và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết làm khuôn khổ pháp lý cho ĐSTĐC Bắc - Nam hoạt động.

Đối với khối quản lý nhà nước, việc đào tạo chủ yếu là đào tạo tại chức, ngắn hạn từ 2 tuần đến 6 tháng. Hình thức đào tạo kết hợp cả khóa học trong nước do chuyên gia trong hoặc nước ngoài giảng dạy và cả các khóa đào tạo nước ngoài. Dự tính, cần cử khoảng 500 lượt cán bộ, công chức dự các khóa đào tạo tại nước ngoài trong suốt quá trình triển khai dự án. Ngoài ra, một số vị trí quan trọng cần được đào tạo dài hạn, chủ yếu là chương trình đào tạo thạc sĩ.

Tổng kinh phí dành cho công tác đào tạo nghiệp vụ cho nhân lực quản lý nhà nước khoảng 200 tỷ đồng (tương đương 8 triệu USD) từ nguồn ngân sách nhà nước và tranh thủ huy động nguồn hỗ trợ kỹ thuật xây dựng năng lực theo hình thức viện trợ không hoàn lại của các nước có kinh nghiệm về phát triển và vận hành ĐSTĐC như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Đức…

5.2. Nhu cầu và phương án đào tạo nhân lực quản lý dự án

Theo cơ chế và tổ chức thực tế hiện nay, nguồn nhân lực quản lý dự án chủ yếu được hình thành từ các ban quản lý dự án của Bộ GTVT và địa phương. Đối với dự án ĐSTĐC Bắc - Nam, nòng cốt là Ban Quản lý dự án Đường sắt.

Do ĐSTĐC Bắc - Nam là dự án công nghệ cao, lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam, 80 - 90% nhân lực quản lý dự án cần được đào tạo nghiệp vụ liên quan đến hệ thống ĐSTĐC ở các mức độ và chuyên ngành khác nhau. Ước tính khoảng 700 lượt đào tạo, trong đó, khoảng 20% đào tạo tại nước ngoài và 80% đào tạo trong nước.

Tiến độ đào tạo phù hợp với tiến độ thực hiện dự án, hầu hết các khóa đào tạo cần hoàn thành trước năm 2027. Từ 2029 - 3035, chủ yếu tiếp tục triển khai các khóa học chuyên ngành bổ sung và các khóa cho cán bộ tuyển mới làm việc ở giai đoạn sau.

Tổng kinh phí dành cho công tác đào tạo nghiệp vụ cho nhân lực quản lý dự án khoảng 200 tỷ đồng (tương đương 8 triệu USD) sử dụng từ nguồn kinh phí quản lý dự án và đã được tính trong tổng mức đầu tư dự án.

5.3. Nhu cầu và phương án đào tạo nhân lực khai thác, vận hành

Với đặc tính kỹ thuật và yêu cầu an toàn cao của ĐSTĐC, 100% nhân lực khai thác, vận hành ĐSTĐC Bắc - Nam cần được đào tạo bài bản, chặt chẽ cả lý thuyết, thực hành và thực tập đúng vị trí công tác trên tuyến thực tế. Các chương trình đào tạo cho các vị trí công tác đều qua 2 bước lý thuyết và thực tập, mỗi bước khoảng từ 1 - 8 tháng, vì vậy, có kế hoạch tuyển dụng và đào tạo phù hợp với tiến độ đầu tư xây dựng. Việc đào tạo nghiệp vụ không chỉ cần thiết khi mới tuyển dụng lần đầu, mà hàng năm hoặc khi có thay đổi, điều chỉnh trong hệ thống.

Do cần đào tạo 13.880 cán bộ, nhân viên cho việc mở khai thác tuyến ĐSTĐC Bắc - Nam, phương án đào tạo sẽ cần kết hợp gửi cán bộ, nhân viên chủ chốt tham gia các khóa đào tạo hoặc thực tập tại nước ngoài với các khóa đào tạo trong nước.

Với khối lượng đào tạo ban đầu 13.880 nhân lực và yêu cầu đào tạo bổ sung, đào tạo lại hàng năm, cần thành lập cơ sở đào tạo nhân lực khai thác, vận hành ĐSTĐC (Trung tâm/Viện đào tạo ĐSTĐC). Cơ sở này nên trực thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, đơn vị được dự kiến được giao quản lý, khai thác, vận hành ĐSTĐC Bắc - Nam.

5.4. Nhu cầu và phương án đào tạo cơ bản nhân lực xây dựng, vận hành ĐSTĐC Bắc - Nam

Đào tạo cơ bản bao gồm: Thứ nhất, đào tạo đại học, sau đại học các chuyên ngành; thứ hai, đào tạo cao đẳng, trung cấp các nghề liên quan phục vụ tư vấn, xây dựng, khai thác vận hành, quản lý nhà nước, quản lý dự án ĐSTĐC Bắc - Nam.

Toàn bộ nhân lực xây dựng, vận hành ĐSTĐC Bắc - Nam đều phải qua đào tạo cơ bản, tức là khoảng 20.000 - 25.000 nhân sự trình độ đại học trở lên và 200.000 - 250.000 lao động có trình độ trung cấp/cao đẳng các ngành, nghề liên quan. Chi phí đào tạo cơ bản do người học chi trả, gọi chung là đóng góp xã hội.

Ngoại trừ một số chuyên ngành chuyên sâu về ĐSTĐC chưa có ở Việt Nam, về căn bản, hệ thống giáo dục của ta hiện nay có đủ năng lực đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực cho dự án.

Tuy nhiên, để thu hút được người học chất lượng đăng ký các chuyên ngành phục vụ cho ĐSTĐC, ngân sách nhà nước cần bố trí khoảng 2.000 tỷ đồng (tương đương 80 triệu USD) dành cho:

- Đào tạo cán bộ giảng dạy, đặc biệt là chuyên ngành chuyên sâu ĐSTĐC (dự kiến khoảng 100 thạc sĩ và 10 tiến sĩ tại nước ngoài)

- Cung cấp khoảng 4.000 xuất học bổng để thu hút nhân lực theo học tại các chuyên ngành phục vụ cho dự án ĐSTĐC.

- Trang bị phòng thí nghiệm, trang thiết bị mô phỏng phục thực hành.

6. Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển nguồn nhân lực xây dựng, khai thác ĐSTĐC Bắc - Nam

- Hoàn thiện thể chế, kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về phát triển và vận hành, khai thác ĐSTĐC. Ưu tiên sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, nguồn hỗ trợ kỹ thuật sớm triển khai công tác đào tạo, tăng cường năng lực quản lý phát triển và vận hành ĐSTĐC cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước.

- Xây dựng Chương trình Quốc gia tiếp nhận và làm chủ công nghệ từ thiết kế, xây dựng hạ tầng, phát triển hệ thống thông tin tín hiệu, công nghệ thông tin, cấp điện, chế tạo đoàn tàu, trang thiết bị, vật liệu ĐSTĐC thông qua huy động nguồn lực tập thể như viện nghiên cứu, các trường đại học, các doanh nghiệp, tập đoàn đầu ngành, lĩnh vực liên quan. Thành lập viện nghiên cứu ĐSTĐC chủ trì nghiên cứu, phát triển làm chủ từng phần công nghệ ĐSTĐC. Nghiên cứu cơ chế, tuyển chọn đơn vị tư vấn, xây lắp, chế tạo, công nghệ thông tin trong nước có tiềm lực, tham gia sớm và sâu vào các giai đoạn phát triển và chuyển giao ĐSTĐC Bắc - Nam.

- Rà soát năng lực các cơ sở đào tạo nghề, đại học, sau đại học các chuyên ngành liên quan. Xây dựng phương án đào tạo nhân lực xây dựng, vận hành ĐSTĐC, bao gồm xây dựng, chuẩn hóa chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, trang bị phòng thí nghiệm, phòng thực hành, phòng học… đáp ứng yêu cầu đào tạo cơ bản nhân lực xây dựng và vận hành ĐSTĐC.

- Xây dựng chương trình, chính sách khuyến khích, thu hút người học có chất lượng vào các ngành, nghề trọng điểm xây dựng, vận hành ĐSTĐC (Chương trình học bổng, quỹ vay vốn sinh viên, liên kết cơ sở giáo dục với doanh nghiệp, đảm bảo đầu ra cho sinh viên…).

- Triển khai truyền thông và hướng nghiệp đầy đủ, kịp thời về nhu cầu nhân lực xây dựng, vận hành ĐSTĐC để học sinh, gia đình, xã hội tiếp cận đủ thông tin, lựa chọn ngành, nghề học phù hợp.

- Hình thành Trung tâm Đào tạo trực thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đáp ứng yêu cầu đào tạo nghiệp vụ thực hành cho nhân lực vận hành, khai thác ĐSTĐC Bắc - Nam;

- Đẩy mạnh, đa dạng hóa các hình thức hợp tác quốc tế với chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu, tập đoàn có nhiều kinh nghiệm về ĐSTĐC tại Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đức, Pháp... cũng như các tổ chức, hiệp hội quốc tế về đường sắt và ĐSTĐC để xây dựng, tăng cường năng lực nghiên cứu - phát triển, năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, viện nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp trong nước.

7. Kết luận

Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố then chốt quyết định sự thành công của quá trình triển khai đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác dự án ĐSTĐC Bắc - Nam, cũng như đảm bảo khả năng tiếp nhận chuyển giao, làm chủ công nghệ vận hành bảo trì, đặt mục tiêu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, khuyến khích phát triển công nghiệp để từng bước làm chủ công nghệ.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy các quốc gia bao gồm cả tự nghiên cứu phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Ý cũng như nhận chuyển giao và tiến tới làm chủ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Tây Ban Nha đều xây dựng chương trình phát triển quốc gia về nguồn nhân lực từ rất sớm, khoảng 5 - 7 năm trước khi đầu tư xây dựng để sẵn sàng nhân lực cho triển khai đầu tư, phát triển ĐSTĐC.

Ước tính, tổng nhu cầu nhân lực trực tiếp ở các khối quản lý nhà nước, quản lý dự án, tư vấn, xây lắp, vận hành cho xây dựng, khai thác ĐSTĐC cao Bắc - Nam cao điểm khoảng 200.000 - 250.000 lao động. Trong đó, nhân lực quản lý dự án 700 - 900 cán bộ, tư vấn 1.100 - 1.300 lao động, xây lắp 180.000 - 240.000 lao động và giai đoạn vận hành là 13.880 lao động. Tổng thể chung, 90% nhân lực chỉ yêu cầu trình độ trung và cao đẳng, 10% trình độ đại học và trên đại học. Yêu cầu nhân lực chuyên ngành đường sắt và ĐSTĐC vào khoảng 2.500 - 3.500 kỹ sư.

Do đặc thù công nghệ và yêu cầu an toàn cao của ĐSTĐC, dù được đào tạo cơ bản, chính quy, toàn bộ nhân lực vẫn cần đào tạo quy trình, nghiệp vụ cụ thể theo công nghệ xây dựng, vận hành trúng thầu. Chương trình đào tạo nhân lực theo 3 loại hình đào tạo (đào tạo trong nước, đào tạo nước ngoài, đào tạo trong và ngoài nước) với 4 cấp trình độ (công nhân kỹ thuật, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ) cho 5 chủ thể (cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị quản lý dự án, đơn vị vận hành khai thác, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu).

Tổng nhu cầu đào tạo (không bao gồm đào tạo cơ bản từ nguồn lực xã hội) khoảng 15.000 lượt với kinh phí khoảng 436 triệu USD, trong đó ngoài nhân sự đã được đào tạo từ nguồn kinh phí dự án (bao gồm 340 triệu USD do doanh nghiệp khai thác vay lại để đào tạo đội ngũ vận hành khai thác, 8 triệu USD từ nguồn kinh phí quản lý dự án để đào tạo nhân lực quản lý), cần có cơ chế đặc thù để bố trí kinh phí từ dự án khoảng 88 triệu USD để:

Thứ nhất, đào tạo cho cơ quan quản lý nhà nước; thứ hai, đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên; thứ ba, cấp học bổng cho học viên cho các chuyên ngành đặc thù như luyện kim, cơ khí, thông tin - tín hiệu, tự động hóa...; thứ tư xây dựng phòng thí nghiệm dùng chung để phục vụ nghiên cứu, phát triển, ứng dụng.

Bên cạnh đó, cần xây dựng một chương trình quốc gia huy động nhân lực, trí lực, tài lực của các viện nghiên cứu, trường đại học, tập đoàn và các nhà khoa học đầu ngành trong và ngoài nước nhằm nghiên cứu tiếp nhận chuyển giao và từng bước làm chủ công nghệ ĐSTĐC. Nguồn nhân lực hình thành từ dự án ĐSTĐC Bắc - Nam sẽ tiếp tục là nền tảng để phát triển mạng lưới đường sắt quốc gia, hệ thống đường sắt đô thị theo Quy hoạch đồng thời tiến tới mở rộng, hợp tác quốc tế, hỗ trợ các nước láng giềng như Lào, Campuchia trong việc đầu tư, xây dựng hệ thống đường sắt.

PV

Nguồn GTVT: https://tapchigiaothong.vn/phat-trien-nguon-nhan-luc-cho-xay-dung-van-hanh-duong-sat-toc-do-cao-bac-nam-183250125152021439.htm
Zalo