Phát biểu, giải trình của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên trước Quốc hội về dự thảo Nghị quyết cơ chế, chính sách đặc thù xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận
Sáng 17/2/2025, tiếp tục chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ 9 Quốc hội khóa XV, trong Phiên thảo luận tại hội trường, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã phát biểu, giải trình về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách đặc thù đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Tạp chí Công Thương xin giới thiệu toàn văn phát biểu trình bày của Bộ trưởng.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu giải trình tại phiên họp sáng 17/2/2025.
Kính thưa đ/c Chủ tịch và các đ/c Phó Chủ tịch Quốc hội - chủ trì phiên họp;
Kính thưa các vị Đại biểu Quốc hội.
Trước hết, thay mặt Cơ quan chủ trì soạn thảo, tôi xin trân trọng cảm ơn các vị ĐBQH đã tham gia góp ý rất tâm huyết, trách nhiệm đối với dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Trong phiên thảo luận tại Tổ ngày 14/2, đã có 49 lượt ĐBQH phát biểu ý kiến. Qua tổng hợp, đa số ĐBQH đã tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết. Bộ Công Thương đã có Báo cáo tiếp thu, giải trình gửi đến các vị ĐBQH.
Chúng tôi trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu các ý kiến xác đáng để tiếp tục hoàn thiện dự thảo, trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Để làm rõ thêm một số vấn đề mà nhiều ĐBQH quan tâm, xin đề cập 05 nhóm vấn đề chính sau:
Thứ nhất, về sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Chúng ta đã biết, nhu cầu điện ở nước ta trong những năm tới là rất lớn để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng 8-10% trở lên đến năm 2030. Theo dự thảo quy hoạch điện VIII điều chỉnh, tổng công suất toàn hệ thống của chúng ta đến năm 2030 dự kiến khoảng 230.000 MW, tức là gấp 3 lần công suất hiện nay.
Trong khi đó, chúng ta đã cam kết với quốc tế là đạt trung hòa các-bon vào năm 2050, cho nên phải phát triển rất mạnh các loại hình nguồn điện, nhất là năng lượng tái tạo để chúng ta đáp ứng được nhu cầu điện năng tăng thêm và nhu cầu điện sạch để phát triển kinh tế đất nước.
Trong khi đó, điện hạt nhân là nguồn điện sạch, điện nền, công suất khả dụng cao, có khả năng cung cấp điện năng ổn định và giá thành hợp lý trong dài hạn, góp phần bảo đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng 2 con số về kinh tế trong kỷ nguyên mới. Vì vậy, Trung ương, Quốc hội và Chính phủ đã chỉ đạo tái khởi động Chương trình phát triển điện hạt nhân và các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Đây là dự án có công nghệ phức tạp và chỉ một số ít quốc gia sở hữu và nhu cầu vốn đầu tư rất lớn. Thông thường trên thế giới, để hoàn thành đầu tư một dự án điện hạt nhân có quy mô tương tự, thời gian từ khi phê duyệt đầu tư đến khi vận hành trong khoảng 10 năm; trong đó, dự án tiến độ nhanh nhất khoảng 7-8 năm và đều phải có cơ chế chính sách đặc thù để thực hiện dự án này.
Do tính chất phức tạp của Dự án điện hạt nhân và lần đầu tiên được xây dựng ở nước ta, để bảo đảm mục tiêu hoàn thành Dự án trong năm 2030-2031 thì rất cần có các cơ chế, chính sách đặc thù, đủ mạnh như trong dự thảo Nghị quyết để đẩy nhanh tiến độ và rút ngắn thời gian thực hiện.
Thứ hai, về cơ sở chính trị, pháp lý ban hành Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thống nhất chủ trương tái khởi động Chương trình phát triển điện hạt nhân và Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV cũng đã ban hành Nghị quyết số 174 về việc “Tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận”; đồng thời, trước đó Quốc hội khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 41 về chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, trong đó tại Điều 4 quy định: Chính phủ nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho phép chủ đầu tư tích lũy nguồn vốn; cung cấp tín dụng; bồi thường, hỗ trợ tái định cư; ổn định đời sống nhân dân… để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị (tại Thông báo số 121 ngày 6/2/2025) và Nghị quyết của Quốc hội khóa XII (tại Nghị quyết số 41 như tôi vừa trình bày), Chính phủ đã có Tờ trình số 74 ngày 8/2/2025, trình Quốc hội xem xét, thông qua các cơ chế, chính sách đặc thù cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Thứ ba, về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Về phạm vi điều chỉnh: Chính phủ chỉ đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù thuộc thẩm quyền của Quốc hội được áp dụng cho 5 nhóm công việc, bao gồm: Lựa chọn nhà đầu tư và nhà thầu, Chuẩn bị và thực hiện đầu tư; Cơ chế tài chính và thu xếp vốn đầu tư; Tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật và định mức, đơn giá và Di dân, tái định cư, bảo đảm an sinh xã hội khu vực của Dự án.
Về đối tượng áp dụng: Cơ chế, chính sách đặc thù nêu trên chỉ áp dụng cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2 và các dự án thành phần đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại Nghị quyết số 41. Thời gian áp dụng kể từ thời điểm Nghị quyết có hiệu lực tới khi hoàn thành đầu tư dự án và đưa vào vận hành, khai thác.
Tiếp thu ý kiến góp ý của các đại biểu, Cơ quan soạn thảo xin điều chỉnh theo hướng chỉ nêu chung “chủ đầu tư dự án”, đồng thời bổ sung đối tượng áp dụng “tỉnh Ninh Thuận” và “đơn vị được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án”. Những chính sách đặc thù khác nếu có sẽ được Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định trong thời gian tới.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại phiên thảo luận hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách đặc thù đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, sáng 17/2/2025.
Thứ tư, về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các cơ chế, chính sách đặc thù
Do Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận có quy mô rất lớn, công nghệ phức tạp, chưa có kinh nghiệm thực hiện ở nước ta nên rất cần có các cơ chế, chính sách đặc thù, đủ mạnh. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách này chưa được quy định hoặc khác với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam nên rất cần phải được Quốc hội thông qua, ban hành Nghị quyết để tạo cơ sở pháp lý cho các bộ, ngành và tỉnh Ninh Thuận thực hiện trong thời gian tới.
Khi được Quốc hội thông qua, các cơ chế, chính sách đặc thù nêu trên sẽ tạo thuận lợi và khả thi cho việc triển khai đồng bộ, đồng thời nhiều hạng mục công trình của Dự án như việc đàm phán hiệp định đối tác, với tổng thầu thực hiện các gói thầu chìa khóa trao tay; lập, phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi; thu xếp vốn đầu tư; đền bù di dân, tái định cư, chuẩn bị mặt bằng xây dựng; đào tạo nguồn nhân lực… để góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện, bảo đảm hoàn thành đự án theo chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Việc thực hiện dự án này chúng ta còn có sự giám sát rất chặt chẽ của Tổ chức năng lượng quốc tế (IAEA), nên chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm.
Thứ năm, về thời điểm đề nghị thông qua Nghị quyết
Để thực hiện mục tiêu hoàn thành Dự án trong năm 2030-2031, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng nhu cầu điện năng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong kỷ nguyên mới và chào mừng kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng và 85 năm ngày thành lập nước, rất cần phải có cơ chế, chính sách đặc thù để đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
Vì vậy, Chính phủ kính đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận ngay tại Kỳ họp này để làm cơ sở triển khai thực hiện, tận dụng các điều kiện thuận lợi, tinh thần và khí thế tiến công, vượt khó, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công việc quan trọng ban đầu của Dự án.
Với tinh thần cầu thị, khẩn trương, không cầu toàn nhưng cũng không nóng vội, chủ quan, sau phiên thảo luận hôm nay, chúng tôi cam kết sẽ cùng Cơ quan chủ trì thẩm tra quán triệt thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao, nghiên cứu kỹ lưỡng và tiếp thu tối đa ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, trình Quốc hội xem xét, thông qua vào cuối kỳ họp này, làm cơ sở để khẩn trương triển khai thực hiện Dự án.
Trong quá trình triển khai Dự án, nếu phát sinh các vấn đề mới hoặc phải sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách này, Chính phủ tiếp tục nghiên cứu để đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội.