Phải hướng dẫn học viên sau đại học 'ngành đúng' gây khó cho ứng viên GS, PGS

Điều này vừa làm hạn chế khả năng đóng góp của nhà khoa học trong môi trường đào tạo liên ngành vừa gây khó khăn cho ứng viên của lĩnh vực ít nơi đào tạo.

Sau gần 7 năm triển khai, Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xét công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư cho thấy những chuyển biến tích cực trong việc chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu và đào tạo.

Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, một số bất cập đã bộc lộ, đặc biệt khi áp dụng đối với các ngành khoa học đặc thù như Triết học, Chính trị học hay Xã hội học – những lĩnh vực có đặc điểm học thuật và phương pháp nghiên cứu mang tính đặc thù, có khác biệt đáng kể so với các ngành khoa học tự nhiên hay kỹ thuật.

Còn nhiều tiêu chí chưa rõ ràng

Là người được phong học hàm theo Quyết định 37, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng – Giảng viên cao cấp khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá Quyết định 37 đã mang lại nhiều thay đổi tích cực.

Thứ nhất là việc quy định rõ ràng, cụ thể hơn về số giờ giảng tối thiểu đối với các ứng viên giáo sư, phó giáo sư – đặc biệt là trong 3 năm cuối trước khi nộp hồ sơ. Đây là yếu tố then chốt giúp sàng lọc và đảm bảo ứng viên thực sự hoạt động trong lĩnh vực giảng dạy, khắc phục tình trạng một số cá nhân chủ yếu làm công tác quản lý hoặc thỉnh giảng vẫn được xét phong học hàm như trước kia.

Thứ hai, các tiêu chí về chuyên môn, nghiên cứu, công bố quốc tế và trình độ ngoại ngữ cũng được siết chặt, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ được xét duyệt. Đặc biệt, tính minh bạch trong quá trình xét phong đã được cải thiện rõ rệt. Công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin, phản biện và đưa ra ý kiến về từng ứng viên, như năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và liêm chính khoa học.

Bên cạnh đó, Giáo sư Hưng cũng chỉ ra một số rào cản đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là ngành Triết học khi đáp ứng các tiêu chí của Quyết định 37.

Theo đánh giá của thầy, đặc điểm nghiên cứu của khối ngành này đòi hỏi thời gian suy luận, kiểm chứng. Một bài viết học thuật nghiêm túc có thể mất nhiều tháng, thậm chí vài năm để hoàn thiện, đặc biệt khi hướng tới các tạp chí quốc tế uy tín như Journal of Vietnamese Studies (JVS).

Thứ hai, do đặc thù gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị và lịch sử phát triển của đất nước khiến các ngành này gặp nhiều khó khăn trong việc hội nhập quốc tế cũng như kết nối học thuật với giới nghiên cứu nước ngoài. Điều này phần nào làm hạn chế khả năng công bố quốc tế, một trong những tiêu chí quan trọng trong Quyết định 37.

Thứ ba là mặt bằng ngoại ngữ – đặc biệt là tiếng Anh học thuật của ứng viên. Thực tế cho thấy việc dịch thuật và tiếp cận tài liệu quốc tế, cũng như viết bài chuẩn mực theo yêu cầu quốc tế là thách thức không nhỏ với những ứng viên ngành Triết học.

 Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng – Giảng viên cao cấp khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: website vnu.edu.vn

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng – Giảng viên cao cấp khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: website vnu.edu.vn

Chia sẻ về tác động của Quyết định 37, Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Kiên - Giảng viên cao cấp Viện Khoa học Chính trị - Xã hội, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho rằng, Quyết định 37 đã tạo ra những chuyển biến nhất định đối với cộng đồng học thuật, đặc biệt là trong đội ngũ giáo sư và phó giáo sư.

Theo đó, Quyết định 37 đã góp phần nâng cao tiêu chuẩn xét công nhận chức danh, từ đó thúc đẩy sự phát triển về chất lượng chuyên môn, năng lực nghiên cứu cũng như ý thức tuân thủ các chuẩn mực học thuật trong giới khoa học.

Tuy đánh giá cao những tiến bộ mà Quyết định 37 mang lại, song cô Kiên cũng cho rằng một số quy định hiện hành cần được rà soát và hoàn thiện thêm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các ứng viên tham gia xét chọn mà không làm suy giảm các tiêu chuẩn chất lượng vốn có.

Một trong những vấn đề cần được quan tâm điều chỉnh trong Quyết định 37 là tiêu chí thâm niên giảng dạy – một điều kiện quan trọng trong quá trình xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư. Theo Phó Giáo sư Phạm Thị Kiên, tiêu chí này hiện vẫn chưa được quy định một cách tường minh và thống nhất mà đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc không xác định mốc thời gian khởi tính (theo năm học hay năm hành chính 12 tháng) và điểm bắt đầu (từ thời điểm ký hợp đồng lao động hay từ khi thực hiện nhiệm vụ giảng dạy thực tế).

Chưa kể, Quyết định 37 cũng chưa quy định rõ ràng và linh hoạt về việc công nhận thâm niên giảng dạy đối với các giảng viên, nghiên cứu viên đang công tác tại viện nghiên cứu hoặc các cơ sở ngoài hệ thống đại học truyền thống – những nơi không trực tiếp cấp bằng đại học nhưng vẫn tham gia vào đào tạo trình độ tương đương.

Theo Điều 4 và Điều 5 của Quyết định 37, ứng viên giáo sư, phó giáo sư phải có thâm niên giảng dạy ở trình độ đại học trở lên tại cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên quy định này không làm rõ việc giảng dạy trong các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, trung cấp chính trị, cao cấp lý luận chính trị, quản lý nhà nước hoặc các khóa đào tạo nghiên cứu viên tại viện nghiên cứu có được tính tương đương hay không. Điều này dẫn đến mâu thuẫn với thực tế triển khai các chương trình đào tạo chất lượng cao hiện nay tại nhiều viện nghiên cứu lớn – nơi vẫn đảm nhiệm vai trò hướng dẫn nghiên cứu sinh, thiết kế chương trình chuyên sâu và tham gia đào tạo cán bộ khoa học, nhưng lại chưa được công nhận thâm niên theo yêu cầu xét học hàm.

Thứ hai là tiêu chí về điều kiện hướng dẫn học viên cao học và nghiên cứu sinh. Quyết định 37 yêu cầu ứng viên phải hướng dẫn học viên sau đại học trong “ngành đúng” mới được công nhận khi xét học hàm. Thế nhưng trong các ngành thuộc khối khoa học xã hội và nhân văn như Triết học – Chính trị học – Xã hội học, hay Tâm lý học – Giáo dục học – Nhân học, giảng viên có chuyên môn sâu, công bố quốc tế và kinh nghiệm hướng dẫn ở lĩnh vực gần, nhưng không thuộc ngành đúng theo danh mục đào tạo nên vẫn không được ghi nhận theo tiêu chí của Quyết định 37.

Điều này không chỉ làm hạn chế khả năng tham gia và đóng góp của các nhà khoa học trong môi trường đào tạo liên ngành, mà còn gây khó khăn cho ứng viên đến từ các lĩnh vực ít cơ sở đào tạo, hoặc chưa được phân ngành một cách linh hoạt.

Chưa kể, trong khi Quyết định 37 yêu cầu ứng viên có kinh nghiệm hướng dẫn thạc sĩ hoặc nghiên cứu sinh, song nhiều cơ sở đào tạo ban hành các quy định nhằm hạn chế quyền hướng dẫn, chỉ cho phép giảng viên cơ hữu thực hiện nhiệm vụ này, mà không mở rộng cơ hội cho giảng viên thỉnh giảng tham gia.

Hiện nay, Thông tư 09/2017/TT-BGDĐT, Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT và Thông tư 12/2024/TT-BGDĐT quy định khá chặt chẽ về việc chỉ công nhận vai trò phát triển chương trình đào tạo đối với giảng viên cơ hữu thuộc “ngành đúng” tại cơ sở đào tạo được cấp phép trình độ thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Trong khi đó Quyết định 37 lại yêu cầu minh chứng về vai trò xây dựng chương trình như một tiêu chí bắt buộc để xét học hàm.

Sự thiếu đồng bộ và liên thông giữa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã tạo ra rào cản lớn cho các ứng viên khi thực hiện tiêu chí “tham gia xây dựng hoặc phát triển chương trình đào tạo” theo Quyết định số 37.

Để tháo gỡ, cần điều chỉnh các quy định theo hướng mở rộng phạm vi công nhận vai trò phát triển chương trình đối với nhà khoa học có chuyên môn đúng và chuyên môn phù hợp, dù không thuộc cơ hữu chính thức, nếu có phân công hợp đồng rõ ràng. Đồng thời, khuyến khích các cơ sở đào tạo thiết lập cơ chế phối hợp, chia sẻ nguồn lực học thuật và liên kết liên cơ sở trong phát triển chương trình.

Cùng với đó, cần có sự thống nhất giữa Quyết định 37 với các văn bản kiểm định chất lượng như Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT, Thông tư 04/2016/TT-BGDĐT và Thông tư 24/2023/TT-BGDĐT nhằm bảo đảm tính nhất quán trong công nhận nhân sự và chương trình đào tạo. Đây là bước đi cần thiết để không chỉ tháo gỡ rào cản cho ứng viên, mà còn thúc đẩy quá trình đổi mới giáo dục đại học theo hướng liên ngành, tích hợp, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW.

 Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Kiên - Giảng viên cao cấp Viện Khoa học Chính trị - Xã hội, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Kiên - Giảng viên cao cấp Viện Khoa học Chính trị - Xã hội, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Để tạo cơ hội cho ứng viên phó giáo sư, giáo sư trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, cô Kiên đề xuất sửa đổi Quyết định 37 theo hướng mở rộng công nhận thâm niên giảng dạy ở các viện, học viện có chức năng đào tạo tương đương. Đồng thời xây dựng cơ chế minh chứng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn phát triển học thuật đa dạng và liên ngành trong bối cảnh đổi mới sáng tạo hiện nay.

Nên quy định rằng giảng viên hoặc nghiên cứu viên thực hiện đạt hoặc vượt mức nghĩa vụ giảng dạy chuẩn mỗi năm học – tính theo giờ giảng thực tế, không phụ thuộc vào năm hành chính đều được xem là đáp ứng tiêu chí thâm niên. Việc quy đổi theo giờ giảng thực tế thay vì thời gian hành chính sẽ phản ánh đúng năng lực đóng góp của người giảng dạy, đồng thời tạo điều kiện công bằng hơn cho các đối tượng tham gia giảng dạy trong các loại hình đào tạo đa dạng hiện nay.

Thứ hai, cần mở rộng và làm rõ tiêu chí phát triển chương trình đào tạo theo hướng liên ngành linh hoạt, đồng bộ với các thông tư liên quan để tháo gỡ rào cản pháp lý và thúc đẩy các ngành khoa học liên ngành, thay vì giới hạn cứng nhắc trong khái niệm “ngành đúng” như các quy định hiện hành.

Cuối cùng, thiết lập cơ chế phối hợp giữa đại học và viện nghiên cứu, chia sẻ giảng viên có học hàm, học vị, nhằm tối ưu hóa nguồn lực trí thức và đào tạo nhân lực liên ngành chất lượng cao.

Cần có sự điều chỉnh linh hoạt để khắc phục những vướng mắc

Theo Quyết định 37/2018/QĐ-TTg, công bố kết quả nghiên cứu khoa học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Kiên, một trong những tiêu chí then chốt trong Quyết định số 37 là yêu cầu ứng viên giáo sư, phó giáo sư phải công bố các kết quả nghiên cứu khoa học có giá trị. Tuy nhiên, tiêu chí này hiện mới tập trung vào số lượng công trình, trong khi lại thiếu hướng dẫn cụ thể và nhất quán về phương pháp đánh giá chất lượng từng loại hình sản phẩm khoa học.

Ví dụ việc công nhận sách chuyên khảo hoặc giáo trình như một hình thức thay thế cho bài báo khoa học vẫn chưa có tiêu chí rõ ràng, đặc biệt liên quan đến khái niệm “nhà xuất bản uy tín” – yếu tố mang tính định tính cao và đang được hiểu khác nhau, gây lúng túng và thiếu công bằng cho ứng viên.

Đối với ngành Triết học, điểm đặc thù là giáo trình Triết học Mác – Lênin phải được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt. Điều này tạo ra rào cản lớn đối với các giảng viên, đặc biệt là những người không trực tiếp công tác tại các cơ sở giáo dục đại học có chuyên ngành Triết học, khiến họ khó tiếp cận cơ hội xuất bản được các cơ sở giáo dục đại học công nhận.

Trước thực tế đó, giải pháp thiết thực là cần ban hành danh mục chính thức các nhà xuất bản uy tín trong và ngoài nước, đồng thời xây dựng bộ tiêu chí định lượng, định tính minh bạch để xác định uy tín nhà xuất bản, bao gồm quy trình phản biện, mã ISBN, và khả năng phổ biến trong đào tạo. Việc làm rõ và thống nhất những tiêu chí này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên phát triển theo hướng xuất bản chuyên sâu, mà còn góp phần chuẩn hóa quy trình xét duyệt, đảm bảo công bằng, minh bạch, đồng thời nâng cao chất lượng và vị thế học thuật của các công trình khoa học xã hội và nhân văn trong hệ thống giáo dục đại học quốc gia và quốc tế.

Hai là việc chưa định lượng rõ vai trò của ứng viên trong các công bố quốc tế, dẫn đến thiếu sự phân biệt giữa các vị trí như tác giả chính và tác giả liên hệ. Tình trạng này gây ra sự không thống nhất trong cách hiểu và đánh giá.

Do đó, cần sửa đổi Quyết định 37 theo hướng quy định cụ thể vai trò tác giả được công nhận, thiết lập khung điểm định lượng cho từng loại hình công bố (bài báo ISI/Scopus, bài hội thảo quốc tế uy tín, chương sách,...) và vị trí tác giả. Việc chuẩn hóa các tiêu chí này sẽ tăng cường tính công bằng, minh bạch trong xét duyệt chức danh, đồng thời khuyến khích ứng viên nắm rõ và đáp ứng các yêu cầu một cách hiệu quả.

 Ảnh minh họa: Đào Hiền

Ảnh minh họa: Đào Hiền

Theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg, tiêu chí công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư cho phép thay thế bài báo khoa học bằng các công trình như bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, tác phẩm nghệ thuật hoặc giải thưởng quốc gia, quốc tế. Tuy nhiên, ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn lại hướng đến những sản phẩm mang tính tinh thần và khó lượng hóa dưới dạng sáng chế kỹ thuật truyền thống. Đây là một “rào cản” lớn trong việc áp dụng tiêu chí đánh giá bằng sáng chế cho khối ngành này, khiến các nhà nghiên cứu không dễ đạt được điểm số tương ứng dù có những đóng góp học thuật và thực tiễn sâu sắc.

Trước thực tế đó, cô Kiên cho rằng nên xây dựng một cơ chế đánh giá linh hoạt, cho phép quy đổi các hình thức chuyển giao tri thức đặc thù của ngành xã hội nhân văn – như phản biện chính sách, tư vấn chiến lược, tổ chức diễn đàn học thuật, tham gia soạn thảo văn bản pháp luật thành các điểm tương đương với sáng chế, giải pháp hữu ích.

Việc ghi nhận và quy đổi phù hợp không chỉ đảm bảo công bằng trong đánh giá học thuật mà còn góp phần thúc đẩy đội ngũ trí thức tích cực đóng góp cho những vấn đề trọng yếu của quốc gia, phát huy vai trò phản biện và dẫn dắt tư tưởng trong quá trình hoạch định thể chế và phát triển bền vững.

Ngoài ra, Phó giáo sư Kiên cũng cho biết hiện Quyết định 37 chưa có quy định riêng hoặc cơ chế đặc cách nhằm thu hút và công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư đối với người Việt Nam ở nước ngoài hoặc người nước ngoài đã được bổ nhiệm tại các trường đại học uy tín trên thế giới. Trong khi xu thế quốc tế hóa giáo dục đại học ngày càng mạnh mẽ, tiêu chí xét chức danh trong nước vẫn thiên về yêu cầu “giảng viên cơ hữu ngành đúng”, hồ sơ chuẩn hóa theo hệ quy chiếu nội địa và thiếu sự linh hoạt trong công nhận năng lực chuyên môn quốc tế.

Do đó, cần bổ sung vào Quyết định 37 một cơ chế công nhận đặc cách đối với các trường hợp có học hàm tại các trường thuộc top 500 thế giới (theo các bảng xếp hạng quốc tế như QS, THE, ARWU) với điều kiện có hợp đồng hoặc cam kết giảng dạy, nghiên cứu tại Việt Nam và có công bố khoa học phù hợp trong 3 năm gần nhất.

Đồng thời, cần xem xét miễn một số điều kiện thủ tục, như yêu cầu xây dựng chương trình đào tạo trong nước nếu ứng viên đã chủ trì chương trình được kiểm định quốc tế; chấp nhận minh chứng học hàm từ đại học uy tín toàn cầu.

Bên cạnh đó có thể thành lập hội đồng thẩm định chức danh học hàm mở rộng, bao gồm các chuyên gia quốc tế và hoạt động theo mô hình liên ngành, nhằm bảo đảm đánh giá khách quan, hội nhập và linh hoạt.

Còn theo quan điểm của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng, cần vận dụng linh hoạt Nghị định 37 đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Bởi, việc yêu cầu công bố quốc tế đối với tất cả các ngành, bao gồm cả khối khoa học xã hội và nhân văn có thể khẳng định là một bước tiến tích cực. Tuy nhiên, để tiêu chí này thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự vận dụng mềm dẻo, linh hoạt hơn, phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực nghiên cứu.

Trong khối xã hội và nhân văn, đặc biệt là các ngành như Triết học, Xã hội học, Chính trị học vốn có sự gắn bó mật thiết với bối cảnh thể chế chính trị, văn hóa và ngôn ngữ của Việt Nam nên việc công bố quốc tế thường gặp nhiều hạn chế về kênh xuất bản, đối tượng độc giả và yêu cầu chuyển tải nội dung học thuật mang tính đặc thù.

Do đó, cần tính đến những hình thức công bố tương đương khác về giá trị học thuật. Cụ thể, có thể cho phép quy đổi một bài báo quốc tế bằng một chương sách được xuất bản tại nhà xuất bản uy tín, có hội đồng thẩm định khoa học rõ ràng, hoặc một công trình chuyên khảo có đóng góp thực tiễn và học thuật rõ nét. Đây là những hình thức công bố phổ biến, phù hợp với chuẩn mực nghiên cứu của nhiều ngành trong khối xã hội và nhân văn, đồng thời vẫn đảm bảo tính học thuật nghiêm túc và giá trị đóng góp cho khoa học.

“Trên thực tế, trong quá trình thực hiện Nghị định 37, đã có một số cơ sở áp dụng linh hoạt theo hướng này. Tuy nhiên, để tránh tình trạng mỗi nơi một cách hiểu và đảm bảo sự thống nhất trong xét công nhận chức danh, cần sớm thể chế hóa các hình thức quy đổi này trong văn bản hướng dẫn cụ thể. Điều đó không chỉ giúp khơi thông con đường phát triển học thuật cho các ngành đặc thù, mà còn giữ vững tinh thần nâng cao chất lượng nghiên cứu của Nghị định 37 một cách thực chất”, thầy Hưng nêu quan điểm.

ĐÀO HIỀN

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/phai-huong-dan-hoc-vien-sau-dai-hoc-nganh-dung-gay-kho-cho-ung-vien-gs-pgs-post250824.gd
Zalo