PGS.TS Đinh Thị Vân Chi: Gia đình hạnh phúc - Quốc gia thịnh vượng

Theo PGS.TS Đinh Thị Vân Chi, quốc gia chỉ có thể vững mạnh và phát triển bền vững khi những tế bào gia đình khỏe mạnh, cường thịnh và hạnh phúc.

Ngày 4/5/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 72/2001/QĐ-TTg, lấy ngày 28/06 hàng năm làm Ngày Gia đình Việt Nam nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào "Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc".

Năm 2025, Ngày Gia đình Việt Nam có chủ đề “Gia đình hạnh phúc - Quốc gia thịnh vượng”. Nhân dịp này, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trò chuyện với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội để lắng nghe những chia sẻ của cô về ngày kỷ niệm ý nghĩa trên.

Gia đình và quốc gia – Mối quan hệ nền tảng và chiến lược

Chia sẻ về chủ đề của Ngày Gia đình Việt Nam năm 2025, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi nói: “Mối quan hệ giữa gia đình và quốc gia không đơn thuần là tương tác giữa một thực thể vi mô và một hệ thống vĩ mô mà là mối quan hệ cơ cấu và chức năng, gia đình vừa là nơi sản sinh nguồn lực con người, vừa là cơ chế truyền thụ giá trị nền tảng của quốc gia.

Từ thời cổ đại, Aristotle đã từng nói “Gia đình là tế bào của xã hội". Nhiều nhà xã hội học sau này như Parsons, Giddens đã nhấn mạnh, gia đình là thiết chế xã hội đầu tiên và cơ bản nhất, nơi cá nhân học cách sống trong cộng đồng, tiếp nhận các chuẩn mực đạo đức - pháp lý - văn hóa.

Vì vậy quốc gia chỉ có thể thịnh vượng, vững mạnh và phát triển bền vững khi những tế bào gia đình khỏe mạnh, cường thịnh và hạnh phúc”.

Theo cô Chi, “gia đình hạnh phúc” là khái niệm đa chiều, cần được cụ thể hóa. Hạnh phúc là trạng thái cảm giác, khi con người cảm thấy an toàn, vui vẻ, sảng khoái và hài lòng.

Trong xã hội hiện đại, khi mọi thứ đều biến đổi và có nhiều nhân tố tác động tới con người, hạnh phúc gia đình dựa trên nền tảng sự hài lòng về các khía cạnh cơ bản của đời sống như sức khỏe, kinh tế, công việc và sở thích, trên cơ sở các mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình.

Đó là một trạng thái cân bằng động, cân bằng, nhưng luôn biến đổi, không tĩnh tại. Trong đó các thành viên duy trì được cảm giác an toàn, kết nối và phát triển cá nhân trong khuôn khổ gia đình.

Do đó, cốt lõi của gia đình hạnh phúc không còn nằm ở cấu trúc (có đủ cha mẹ con cái hay không), mà nằm ở chất lượng mối quan hệ giữa các thành viên (giao tiếp, hỗ trợ cảm xúc); mức độ tôn trọng lẫn nhau và phân chia công bằng trách nhiệm; khả năng thích ứng với thay đổi và giải quyết xung đột một cách tích cực

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi bày tỏ: "Có thể xây dựng một bộ tiêu chí thực chất về “gia đình hạnh phúc”. Việc xây dựng là khả thi nếu tiếp cận từ mô hình đa chiều (multi-dimensional model), kết hợp giữa chỉ số cảm xúc gia đình (family well-being index), mức độ ổn định quan hệ, và năng lực thích ứng xã hội.

Đây có thể trở thành công cụ hữu ích cho việc xây dựng chương trình giáo dục, truyền thông và thiết kế chính sách gia đình theo nhóm đặc thù".

Dưới góc nhìn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi, để gia đình thực sự là “tế bào lành mạnh” của xã hội cần hành động trên ba trục chính:

Đầu tiên là về chính sách xã hội. Việt Nam cần một hệ thống chính sách gia đình theo hướng chủ động và bao trùm– không chỉ điều chỉnh hôn nhân và ly hôn, mà còn đầu tư vào phúc lợi gia đình, bình đẳng giới trong chăm sóc, và hỗ trợ nhóm dễ bị tổn thương. Đề xuất xây dựng Luật Gia đình hoặc chiến lược quốc gia về gia đình là cần thiết.

Tiếp đó, cần giáo dục và truyền thông xã hội. Việc lồng ghép giáo dục làm cha mẹ, giáo dục cảm xúc - xã hội (social emotional learning) vào nhà trường là cách thiết thực để hình thành năng lực gia đình từ sớm, thay vì “chữa cháy” sau khi gia đình gặp khủng hoảng.

Cuối cùng là hệ thống hỗ trợ xã hội tại cộng đồng. Cần phát triển mạng lưới tư vấn, hỗ trợ và kết nối, có thể do Nhà nước, tổ chức xã hội dân sự, hoặc mô hình công– tư kết hợp đảm nhiệm.

Gia đình Việt Nam hiện đại mang nhiều đặc điểm mới

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi phân tích, gia đình ở Việt Nam hiện đang có những đặc điểm mới. Đó là sự chuyển đổi mạnh mẽ từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại. Gia đình hạt nhân (gồm cha mẹ và con cái) dần thay thế mô hình gia đình mở rộng (nhiều thế hệ sống chung).

Đi cùng với điều này là tính cá nhân tăng cao, thậm chí nhiều người trẻ ưu tiên sự nghiệp, trì hoãn hôn nhân, lựa chọn sống độc thân dài hạn.

Chức năng gia đình được phân hóa. Gia đình không còn là đơn vị sản xuất chủ yếu (như trước đây), mà chuyển trọng tâm sang chức năng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; chức năng gìn giữ văn hóa, truyền thông giá trị. Trong đó, một phần chức năng chăm sóc, giáo dục đang được “xã hội hóa” hoặc chuyển sang các thiết chế khác (nhà trẻ, trường học, viện dưỡng lão...).

Cấu trúc gia đình ngày càng đa dạng. Ngoài gia đình đầy đủ còn có gia đình khuyết thiếu (đơn thân, ly hôn, không kết hôn nhưng nuôi con…) và gia đình xuyên quốc gia (vợ/chồng đi lao động nước ngoài).

Vai trò giới trong gia đình tuy có chuyển biến tích cực, song gánh nặng kép vẫn nghiêng về phụ nữ (phụ nữ Việt Nam làm việc nhà gấp gấp từ 1,8 đến 2,5 lần nam giới, trong khi vẫn làm việc ngoài xã hội - Theo Điều tra Lao động Việc làm năm 2024).

Ảnh hưởng ngày càng sâu của công nghệ số và truyền thông mạng. Trẻ em và thanh thiếu niên sử dụng mạng xã hội, internet như “một phần không thể thiếu của cuộc sống”; mối quan hệ trong gia đình chịu tác động từ truyền thông đa chiều, đôi khi gây mâu thuẫn giá trị giữa các thế hệ; xuất hiện hiện tượng “sống chung mà không kết nối”, khi các thành viên ở gần nhau về không gian nhưng xa cách về cảm xúc.

Gia tăng các nguy cơ rạn nứt và tổn thương gia đình. Tỷ lệ ly hôn tăng, đặc biệt ở độ tuổi 25–35 (theo Tòa án nhân dân tối cao, năm 2023 có khoảng 32.000‑35.000 vụ trong năm 2023).

Bạo lực gia đình vẫn diễn biến phức tạp. Theo Tổng điều tra quốc gia về bạo lực với phụ nữ (UNFPA–2019), có tới 62,9% phụ nữ từng bị ít nhất một hình thức bạo lực trong đời do chồng/bạn tình gây ra.

Gia đình hiện đại dễ bị tổn thương cũng dẫn tới tình trạng mẹ đơn thân, người già sống một mình, trẻ em bị bỏ mặc...

Cô Chi chỉ ra: "Gia đình Việt Nam hiện nay đang chịu tác động đồng thời từ nhiều biến động lớn, trong đó đáng kể đến là đô thị hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, số hóa và biến đổi vai trò giới. Những quá trình này đã làm thay đổi cấu trúc, chức năng và cả các kỳ vọng xã hội đối với gia đình.

Một số thách thức nổi bật gồm sự rạn nứt kết nối liên thế hệ do khoảng cách tuổi tác và khác biệt hệ giá trị; tỷ lệ ly hôn tăng ở các đô thị, kèm theo đó là áp lực lên nhóm đơn thân nuôi con; gia tăng hiện tượng “quan hệ ảo” khi tương tác chủ yếu thông qua công nghệ, nhưng thiếu kết nối cảm xúc thực.

Đồng thời, một mô hình gia đình mới đang dần hình thành, là kết quả của quá trình hiện đại hóa xã hội, với các đặc trưng: linh hoạt về cấu trúc, dân chủ trong quan hệ, bình đẳng giới, và đề cao chất lượng sống. Tuy nhiên, đi cùng với đó là những thách thức về duy trì kết nối, chăm sóc liên thế hệ và bảo đảm an toàn tâm lý cho các thành viên".

Cụ thể, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi phân tích, mô hình này gia đình mới có các đặc điểm như cấu trúc linh hoạt, thu hẹp quy mô, chủ yếu là gia đình hạt nhân, với nhiều dạng phi truyền thống như đã đề cập.

Giá trị gia đình chuyển từ "bổn phận" sang "tự nguyện" dựa trên tình yêu, sự đồng thuận và khả năng chia sẻ. Vì thế, chất lượng hôn nhân được coi trọng hơn hình thức. Thậm chí gia tăng xu hướng “hôn nhân thử nghiệm” (sống thử), hoặc hoãn kết hôn để tập trung cho sự nghiệp, học vấn.

Phân công vai trò giới tiến đến bình đẳng hơn. Người chồng ngày càng chia sẻ trách nhiệm nội trợ và chăm sóc con cái; phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn, đóng vai trò trụ cột kép trong kinh tế và giáo dục con cái. Mặc dù vậy, bất bình đẳng giới vẫn tồn tại.

Tác động sâu sắc của công nghệ và mạng xã hội, dẫn tới giao tiếp đa tầng giữa các thành viên gia đình - cả trực tiếp và trực tuyến. Hình thành các "gia đình số hóa" với các nhóm chat gia đình, chia sẻ hình ảnh, hoạt động qua mạng đang trở nên phổ biến.

Chuyển dịch chức năng gia đình từ nơi sản xuất vật chất sang nơi giáo dục, hỗ trợ tinh thần, và phát triển cá nhân. Các thành viên trong gia đình có nhiều không gian cá nhân hơn, được khuyến khích tự chủ hơn.

Việc nhận diện và nghiên cứu sâu về mô hình này là cần thiết, để điều chỉnh chính sách theo hướng thích ứng, thay vì tiếp tục áp dụng khung pháp lý– xã hội của thế kỷ trước.

Sự cần thiết của ngành Gia đình học

Theo quan điểm của nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, cần thêm những chính sách và hệ thống hỗ trợ đối với gia đình.

Hiện nay, nhiều quốc gia phát triển đang đặt chiến lược phát triển gia đình với bốn trụ cột chính sách hiện đại, gói gọn trong cụm từ: “Chính sách vòng đời - dịch vụ thân thiện - giáo dục chủ động - dữ liệu thực chứng”, mà Việt Nam cũng nên hướng đến nếu muốn phát triển gia đình một cách khoa học, bền vững.

Chính sách vòng đời (Life-course family policy) là các chính sách hỗ trợ gia đình và các thành viên ở từng giai đoạn khác nhau của vòng đời, từ lúc hình thành hôn nhân– sinh con– nuôi dạy con– khủng hoảng tuổi trung niên– chăm sóc người già.

Ví dụ các chính sách như trợ cấp kết hôn, hỗ trợ sinh con (giai đoạn mới lập gia đình); nghỉ thai sản, giữ trẻ (giai đoạn nuôi con nhỏ); tư vấn cha mẹ tuổi dậy thì, giáo dục kỹ năng làm cha mẹ; dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại nhà; hỗ trợ ly hôn văn minh, tái cấu trúc sau ly hôn…

Hệ thống chính sách này được thiết kế theo chu trình đời sống, giúp người dân nhận được hỗ trợ đúng lúc.

Dịch vụ thân thiện (Family-friendly services) là các dịch vụ công, hoặc công - tư kết hợp, hỗ trợ gia đình theo cách dễ tiếp cận, không kỳ thị, tôn trọng đa dạng và thuận tiện sử dụng.

Ví dụ các dịch vụ như trung tâm tư vấn gia đình miễn phí hoặc giá rẻ tại cấp xã/phường; Nhà trẻ công lập hoạt động ngoài giờ hành chính; trung tâm hỗ trợ phụ nữ đơn thân, người già neo đơn; Dịch vụ chăm sóc tại nhà cho người cao tuổi hoặc trẻ khuyết tật…

Các dịch vụ này góp phần giảm gánh nặng chăm sóc trong gia đình, nhất là cho phụ nữ, từ đó thúc đẩy bình đẳng giới và chất lượng sống gia đình.

Giáo dục chủ động (Proactive family education), không chờ đến khi gia đình gặp khủng hoảng mới hỗ trợ, mà chủ động giáo dục kỹ năng sống gia đình từ sớm, đặc biệt là giáo dục làm cha mẹ; kỹ năng giao tiếp trong gia đình; giáo dục giới tính– cảm xúc; giáo dục ứng xử liên thế hệ…

Ví dụ, Hàn Quốc đưa môn học “Giáo dục gia đình” vào trường phổ thông từ lớp 6–12; Đài Loan (Trung Quốc) có chương trình đào tạo tiền hôn nhân tại cộng đồng; nhiều nước có lớp “nuôi con bằng yêu thương” bắt buộc cho cha mẹ mới sinh.

Giáo dục chủ động sẽ giúp phòng ngừa từ gốc các vấn đề gia đình như bạo lực, ly hôn, bất hòa thế hệ...

Dữ liệu thực chứng (Evidence-based family policy). Tất cả chính sách gia đình nên được xây dựng trên cơ sở điều tra - thống kê - nghiên cứu thực chứng, thay vì dựa vào cảm tính hay định kiến văn hóa.

Cần có điều tra quốc gia về gia đình định kỳ (5 năm/lần); cơ sở dữ liệu liên ngành về nhân khẩu - tình trạng hôn nhân - điều kiện sống; nghiên cứu chuyên sâu về các nhóm gia đình đặc thù (đồng giới, đơn thân, xuyên quốc gia…)

Hệ thống dữ liệu thực chứng sẽ giúp chính sách hướng tới đúng đối tượng, đúng vấn đề, đúng thời điểm và tránh đầu tư sai lệch, lãng phí ngân sách.

Đồng thời, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi khẳng định, phải có chính sách cho nhóm dễ tổn thương.

Các nhóm gia đình dễ bị tổn thương như mẹ đơn thân, người già sống một mình, trẻ em sống trong môi trường thiếu an toàn... thường không được hưởng đầy đủ các dịch vụ xã hội phù hợp. Chính sách hiện tại còn phân tán, mang tính hỗ trợ tạm thời, thiếu sự can thiệp hệ thống.

Giải pháp nên có là chính sách trợ cấp theo hoàn cảnh, đặc biệt hỗ trợ người chăm sóc không lương (caregivers); phát triển hệ thống “trung tâm gia đình cộng đồng” tích hợp tư vấn– hỗ trợ pháp lý– kết nối dịch vụ; đầu tư vào dịch vụ chăm sóc dựa vào cộng đồng (home-based care) cho người cao tuổi, học từ mô hình Nhật Bản và Bắc Âu; xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về gia đình, để giám sát và thiết kế chính sách dựa trên dự liệu thực chứng.

Đặc biệt, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Thị Vân Chi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cần có sự đào tạo chính quy ngành Gia đình học.

Cô Chi bày tỏ: “Việt Nam đã từng có cơ sở đào tạo chính quy ngành Gia đình học ở bậc đại học tại Khoa Gia đình và Công tác xã hội, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, đã có 5 khóa cử nhân ngành này tốt nghiệp ra trường. Tiếc rằng hiện nay ngành Gia đình học không còn tiếp tục tuyển sinh, chỉ còn ngành Quản lý nhà nước về Gia đình đang tiếp tục được đào tạo.

Đây là ngành học thiết yếu để đào tạo nhà nghiên cứu, nhà tư vấn gia đình, nhà hoạch định chính sách xã hội; phát triển các công cụ đánh giá, can thiệp, giáo dục và truyền thông gia đình; kết nối chính sách gia đình với các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, phúc lợi và phát triển bền vững.

Ngành Gia đình học nên có tính liên ngành, tích hợp các nội dung Xã hội học gia đình (family sociology); Tâm lý học gia đình và phát triển con người; Chính sách công và luật pháp về gia đình; Truyền thông và công nghệ trong đời sống gia đình; Giới và công bằng trong gia đình.

Các mô hình chúng ta có thể học hỏi để xây dựng ngành như ngành học về Family, Consumer, and Human Development tại Trường Đại học Utah (Mỹ); kết hợp giữa Gia đình học và Chính sách phụ nữ tại Trường Đại học nữ Ewha (Hàn Quốc); ngành Chính sách xã hội (Social Policy) và Phúc lợi xã hội (Welfare Policy) tại Trường Đại học Tampere (Phần Lan).

Việc xây dựng một chương trình Gia đình học ở bậc đại học, kết hợp đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng chính sách sẽ là bước đi chiến lược để bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam trong giai đoạn mới".

Hồng Linh

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/pgsts-dinh-thi-van-chi-gia-dinh-hanh-phuc-quoc-gia-thinh-vuong-post252413.gd
Zalo