Ðổi mới dựng xây một Việt Nam phồn thịnh, rạng ngời

Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, ra đời trong bối cảnh và hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Trải qua gần 40 năm đổi mới với sự thành công trong mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh… là sự kiểm chứng cho công tác lãnh đạo của Đảng cũng như niềm tin của nhân dân nơi Đảng trong quá trình dựng xây một Việt Nam phồn thịnh, rạng ngời. Bài viết luận giải sứ mệnh của Đảng trong khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đổi mới với những thành công là tiền đề cho thực hiện những đổi mới tiếp theo, hướng tới xây dựng một kỷ nguyên mới ở Việt Nam, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội với ấm no, hạnh phúc, phồn thịnh, rạng ngời.

Sứ mệnh của Ðảng và sự bức thiết phải đổi mới ở Việt Nam

Đổi mới ở Việt Nam không phải được tiến hành ngay sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mà đổi mới ở nước ta là cả một hành trình “thai nghén lịch sử của riêng nó”. Nói như Giáo sư Đặng Phong trong cuốn “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989” thì thời kỳ này được khái quát là “Đêm trước đổi mới”. Lịch sử sau gần 40 năm nhìn lại (tính từ mốc sự kiện năm 1986, tại Đại hội VI của Đảng) chúng ta đã thấy được một thời kỳ mà sau này trong báo cáo chính trị tại Đại hội VI Đảng đã thẳng thắn chỉ ra với sai lầm sau giải phóng là cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp kéo dài. Cơ chế quản lý kinh tế cũ chỉ phù hợp trong kinh tế thời chiến và tất yếu không phù hợp với thời bình (thời kỳ của xây dựng và kiến thiết quốc gia), do vậy đã nảy sinh nhiều bất cập.

Ngay đầu thập niên 1980, tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta rất khó khăn, lạm phát của nền kinh tế đã tăng lên mức phi mã, đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền. Lúc ấy chúng ta chưa có các biện pháp đồng bộ nên khi áp dụng thì cuộc cải cách này đã khiến nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng “hỗn loạn, khủng hoảng ngày càng trầm trọng”… Giáo sư Trần Nhâm (2005) trong tác phẩm “Trường Chinh với hành trình đổi mới tư duy” (NXB Chính trị quốc gia) đã khẳng định: “Sau khi nhận thấy yêu cầu cấp bách của thực tiễn cũng như hình hài con đường đổi mới của Việt Nam, đồng chí Trường Chinh cho rằng tình thế lúc này không thể kéo dài được nữa nhưng để thay thế cái cũ phải nắm vững lý luận, hiểu rõ thực tế và nhìn thẳng vào sự thật…”.

Ngay trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã xác định và chỉ rõ, nguyên nhân của khủng hoảng “những cái sai” trong giai đoạn này bắt nguồn từ những quyết sách nóng vội, chủ quan, bảo thủ, trì trệ về kinh tế. Những sai lầm ấy cũng có nguyên nhân, khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng - “Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. Do vậy, để có thể giải quyết được vấn đề này, Đảng phải bắt tay vào khắc phục được những nguyên nhân tạo ra nó, có như vậy mới từng bước đưa dân tộc Việt Nam vượt qua được khủng hoảng, trì trệ trong xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước giai đoạn 1975-1985.

Như vậy, sứ mệnh của Đảng ta ở đây với vai trò là người dẫn dắt, lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam, do đó Đảng cũng chính là người thấu hiểu sâu sắc thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đổi mới một cách đúng dắn - kịp thời - sát với tất yếu lịch sử để khẳng định Đảng ta vừa là Đảng của giai cấp nhưng cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Một Đảng dám chỉ ra những khuyết điểm để rồi tự khắc phục những khuyết điểm bằng việc gánh vác trọng trách đưa dân tộc Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội đất nước từ năm 1986 đến nay. Chính nhờ sự tiên phong của Đảng, cùng sự đồng hành của toàn dân tộc đã đưa nhân dân Việt Nam đạt được sự ấm no, phồn thịnh, rạng ngời như ngày hôm nay.

Ðổi mới - Ðảng lấy nhiệm vụ trọng tâm là giải quyết những nhu cầu thiết yếu của nhân dân

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã vô cùng sáng suốt khi nhận thức đúng - phân tích đúng - chỉ ra đúng căn nội sinh của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ và đề ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện về kinh tế - chính trị và xã hội của đất nước. Tại đại hội này, mục tiêu quan trọng nhất được đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khóa VI chỉ đạo thực hiện thành công những nhiệm vụ đề ra trong báo cáo chính trị, với 10 nhiệm vụ quan trọng, trong đó nhiệm vụ: “Xây dựng và tổ chức thực hiện 3 chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...” là mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất, để từ đó giải quyết vấn đề ăn - mặc - ở, đang là những nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân lúc bấy giờ. Việc thực hiện những nhiệm vụ này mới góp phần giải quyết được những mục tiêu sau này của dân tộc Việt Nam.

Ngay khi đại hội kết thúc, Ban Chấp hành Trung ương đã bắt tay vào thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ mà đại hội đã đề ra trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện “3 chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, với các nhiệm vụ mà chúng ta đã đạt được đó là: Thứ nhất, bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức lao động. Thứ hai, đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân về những hàng tiêu dùng thiết yếu. Thứ ba, đã tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết.

Thành tựu sau gần 40 năm đổi mới đã minh chứng rõ nét cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta trong việc đề ra chủ trương đúng đắn, sát với thực tiễn cách mạng nước ta. Kết quả của đổi mới cho thấy kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Quy mô nền kinh tế từ 4 tỷ USD lên gần 476,3 tỷ USD (GDP năm 2024); thu nhập bình quân đầu người từ 160 USD lên hơn 4.700 USD. Trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động khó lường, Việt Nam vẫn ưu tiên và đang tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm cán cân của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có bảo đảm cân đối lương thực, thực phẩm và xuất khẩu.

Như vậy, có thể thấy rằng với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo hợp quy luật vận động của lịch sử - sát thực tiễn ở Việt Nam, đã tạo ra cho dân tộc Việt Nam có được những thành tựu vô cùng to lớn của hiện tại và tương lai, như Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài viết kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng (3-2-2025) đó là Rạng rỡ Việt Nam - một Việt Nam vững bước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của ấm no, phồn thịnh, rạng ngời.

Hướng tới kỷ nguyên mới - dựng xây một Việt Nam phồn thịnh, rạng ngời

Thực tiễn cho thấy, sau gần 40 năm đổi mới, từng bước và toàn diện nền kinh tế - xã hội ở nước ta, với việc Đảng đã lựa chọn đúng và sát thực tiễn cho con đường phát triển của cả dân tộc Việt Nam phù hợp quy luật phát triển của nhân loại đã tạo ra những đột phá vô cùng to lớn. Việt Nam từ một nước thuần nông, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, trì trệ thì tới năm 2024, quy mô nền kinh tế đạt gần 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 trên tổng số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam từ khi tiến hành đổi mới đến nay luôn thực hiện chính sách mở cửa để trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu, với mục tiêu hướng đến năm 2045 (dấu mốc kỷ niệm 100 năm ngày Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời) đã và đang đặt ra những nhiệm vụ hết sức nặng nề cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong nhiệm kỳ khóa XIV của Đảng (năm 2026 đánh dấu thời kỳ kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc), với mức tăng trưởng hằng năm đạt 2 con số (trên 10% một năm), như kết luận của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII: “Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”1.

Ngày nay nhìn lại lịch sử với 50 năm ngày đất nước thống nhất, gần 40 năm đổi mới, 95 năm Đảng ra đời, chúng ta thấy, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế to lớn như ngày hôm nay. Nói như Tổng Bí thư Tô Lâm trong chuyên đề giảng dạy tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì đó là sự chuẩn bị cho dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Như vậy, có thể thấy với những thành tựu đã đạt được của gần 40 năm đổi mới càng khẳng định một chân lý đúng đắn là niềm tin của nhân dân vào Đảng ngày càng được củng cố, để từ niềm tin đó, sự thống nhất và đoàn kết nơi nhân dân và Đảng là sự chung sức, đồng lòng của người dân với Đảng trên mọi mặt của đời sống từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng - an ninh. Thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã tạo nền móng vững chắc, với thế và lực cho đất nước Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, một kỷ nguyên của ấm no, phồn thịnh, rạng ngời.

1.https://vov.vn/chinh-tri/thanh-tuu-gan-40-nam-doi-moi-quyet-tam-kien-dinh-buoc-vao-ky-nguyen-vuon-minh.

Thanh Tâm - Thùy Linh - Hải Yến

Nguồn Bình Phước: https://baobinhphuoc.com.vn/news/554/170126/doi-moi-dung-xay-mot-viet-nam-phon-thinh-rang-ngoi
Zalo