Nước Anh hậu Boris Johnson

Ai sẽ trở thành nhà lãnh đạo tiếp theo của đảng Bảo thủ và trở thành Thủ tướng Anh sau ông Boris Johnson đang là câu hỏi được nhiều người quan tâm đến chính trường nước Anh đặt ra lúc này.

Bỏ qua những điều được cho là thất thường trong quy trình bầu cử nội bộ của đảng Bảo thủ (nơi một cơ quan được gọi là Ủy ban 1922 đóng vai trò trung tâm), người ta tỏ ra lo lắng về tương lai chính sách đối ngoại và an ninh của nước Anh nay mai.

Tổng thống Volodymyr Zelensky (bên phải) đón tiếp ông Boris Johnson đến thăm Kiev lần thứ tư, đúng ngày quốc khánh Ukraine 24-8.

Tổng thống Volodymyr Zelensky (bên phải) đón tiếp ông Boris Johnson đến thăm Kiev lần thứ tư, đúng ngày quốc khánh Ukraine 24-8.

Nguyên nhân khiến họ lo ngại bởi vì Anh đóng một vai trò quan trọng trong khu vực. Anh có lực lượng quân sự mạnh nhất châu Âu và nhận được sự tin tưởng của những đối tượng cần được bảo vệ. Mặc dù cho đến nay, Mỹ vẫn là cường quốc quân sự ngoài châu lục quan trọng nhất ở châu Âu nhưng Anh lại nổi lên là bên liên quan chiến lược nổi bật của lục địa này. Anh vẫn luôn là cường quốc hạt nhân ưu việt trong khu vực, với khả năng răn đe chiến lược dựa vào hạm đội tàu ngầm của mình. Mặc dù đã bị thu hẹp thời gian qua, khả năng răn đe chiến lược của Anh vẫn có đầy đủ các năng lực thông thường trên bộ, trên không và trên biển, ngoài ra còn được trang bị các năng lực trí thông minh nhân tạo và điện tử với phạm vi hoạt động toàn cầu.

Từ rất lâu trước khi ông Johnson lên cầm quyền, Anh đã là trụ cột của Lực lượng viễn chinh chung, một nhóm gồm 9 quốc gia ban đầu được thành lập để hợp tác quân sự ở Afghanistan nhưng hiện là tổ chức an ninh quy mô nhỏ hàng đầu của châu Âu. Lực lượng này bao gồm 5 nước Bắc Âu là Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uy và Thụy Điển, 3 nước vùng Baltic là Estonia, Latvia và Lithuania và thêm Hà Lan. Trọng tâm của lực lượng này là phản ứng cực nhanh trước bất kỳ hành động khiêu khích nào trong khu vực; lực lượng này có thể hành động nhanh hơn nhiều so với bất cứ hành động chậm chạp nào của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Không giống như nhiều nỗ lực nhằm xây dựng khả năng phòng thủ dưới sự bảo trợ của Liên minh châu Âu (EU), Lực lượng viễn chinh chung là tổ chức nghiêm chỉnh và có năng lực thực sự chứ không phải mang tính tham vọng và tượng trưng.

Anh cũng là nước cung cấp an ninh hàng đầu ở Estonia, với một lực lượng trang bị xe chiến đấu bọc thép, gần đây đã tăng gấp đôi quân số lên khoảng 2.000 quân như một phần của “Sự hiện diện tăng cường” của NATO tại các nước thành viên. Do đó, có thể hiểu được tại sao từ Phần Lan đến Moldova, bất kỳ sự thay đổi lãnh đạo chính trị nào ở London cũng là một nguyên nhân gây lo ngại.

Bởi thế, có vẻ như trong cuộc cạnh tranh vị trí lãnh đạo tiếp theo của đảng Bảo thủ, cùng với sự ủng hộ của đa đảng đối với sự hỗ trợ về quân sự và các viện trợ khác cho quốc gia đang gặp khó khăn - và sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho NATO - có vẻ việc trấn an các đồng minh đang lo lắng là việc cần làm và cách chính sách của Anh sẽ không thay đổi.

Nhưng, có 2 khó khăn ảnh hưởng đến triển vọng này. Một là sự suy giảm về quân sự: Kho dự trữ của Anh - kết quả của tâm lý tự mãn và bỏ bê nhiều năm qua - lại đang ngày càng ít đi do các đợt viện trợ cho Ukraine. Các sĩ quan Anh bày tỏ lo ngại về khả năng của các lực lượng vũ trang trong việc chống lại một cuộc chiến lâu dài với đối thủ có tiềm lực. Những con số bi quan được đưa ra, cũng không dễ để kiểm chứng: Chỉ có vài chục xe tăng thực sự có thể tham chiến. Đạn sẽ hết trong vài ngày. Quy mô quân đội đã quá nhỏ và sắp thu hẹp hơn nữa. Trong nhiều năm, quân đội Anh đã không được cấp kinh phí để trang bị đầy đủ. Viễn cảnh xảy ra một cuộc chiến không phải chống lại quân nổi dậy được trang bị vũ khí nhẹ mà chống lại một đối thủ ngang hàng gây ớn lạnh. Việc khắc phục vấn đề này sẽ đòi hỏi phải tăng chi tiêu quốc phòng lên rất nhiều. Nếu hiện giờ Anh chi khoảng 2% GDP cho quốc phòng thì con số đó bao gồm các khoản chi cho lương hưu, phúc lợi, bảo tồn và các yếu tố phi quân sự khác. Trên thực tế, chi tiêu quốc phòng của Anh hiện tại chỉ là gần 1,6% GDP.

Tăng chi tiêu quốc phòng lên mức 2,5% GDP - mức tối thiểu cần thiết - sẽ đặc biệt khó thực hiện khi nền kinh tế thu hẹp và lạm phát ảnh hưởng đến mức sống và dịch vụ công. Khi các hộ gia đình phải vật lộn để kiếm sống thì chi phí cho hỗ trợ cuộc chiến ở Ukraine lại chắc chắn sẽ tăng trong chương trình nghị sự.

Và, câu hỏi lớn nhất sẽ là liệu thủ tướng mới có thể hàn gắn mối quan hệ của Anh với Liên minh châu Âu hay không? Khối này đóng vai trò trung tâm trong bất kỳ cải thiện nghiêm túc nào về an ninh châu Âu. Các chuyên gia quốc phòng nghiêm túc chế nhạo những nỗ lực tăng chi tiêu quốc phòng của khối này nhằm xây dựng quyền tự chủ chiến lược và các khả năng phòng thủ không đáng tin cậy khác. Nhưng, những người trong NATO sẵn sàng lập luận rằng, các thể chế của EU đang ở thời điểm thuận lợi nhất để nâng cao năng lực, tăng cường cơ động của quân đội, khuyến khích củng cố các hoạt động mua sắm quốc phòng, hỗ trợ về ngoại giao và kinh tế cho an ninh quân sự của lục địa này, cho dù có phải do Mỹ dẫn đầu hay không.

Tất cả những điều này đã trở nên phức tạp và nghiêm trọng hơn do việc Anh rời khỏi EU (Brexit). Chính quyền của ông Johnson đang mô tả cuộc đối đầu với Brussels là điểm hết sức quan trọng để xoa dịu các phe phái chống EU trong đảng Bảo thủ và giới truyền thông Anh. Mặc dù, cuộc bầu cử lãnh đạo đảng Bảo thủ có thể khiến quan điểm này thêm gay gắt trong ngắn hạn, người kế nhiệm ông Johnson sẽ phải đối phó với những câu hỏi cấp bách về mối quan hệ giữa Anh với châu Âu - mà câu trả lời chắc chắn là hợp tác chứ không thể đối đầu. Các nước đồng minh rõ ràng đang hy vọng một ban lãnh đạo mới ở Anh tập trung một cách nghiêm túc vào nhiệm vụ quân sự và an ninh cốt lõi như vẫn từng: An ninh của châu Âu.

Huy Thông (Tổng hợp)

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/hau-truong/nuoc-anh-hau-boris-johnson-i665659/
Zalo