Nửa thế kỷ thi ca sau chiến thắng 30/4/1975: Xu hướng và giới hạn
Sau đại thắng lịch sử 30/4/1975, nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa trọng đại của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ cũng bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đồng thời tiến hành xây dựng CNXH vì mục tiêu 'Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh'. Văn học cũng từ đó có sự chuyển đổi bắt nhịp với đời sống hiện thực.

Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề: “50 năm văn học nghệ thuật Việt Nam đồng hành cùng dân tộc” ngày 23/4/2025 ở Trung tâm Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội.
Tiếp cận mới và một thi pháp mới
Đây là giai đoạn thơ ca được viết trong thời bình bởi các nhà thơ Việt Nam trên cùng một mảnh đất từng bị chia cắt. Cho dù các nhà thơ về một góc độ nào đó chưa có sự đồng đều về mặt nhận thức, bắt nhịp cùng tiến trình lịch sử nhưng đây vẫn được xem là dấu mốc quan trọng trong tâm thức của những người cầm bút.
Ở giai đoạn đầu sau chiến thắng, đa số các nhà thơ trưởng thành trong chiến tranh vẫn tiếp tục viết về đề tài chiến tranh, nhưng với một cách tiếp cận mới và một thi pháp mới, được khai thác từ nhiều góc độ, nhiều cung bậc, mang lại một cái nhìn đa chiều về chiến tranh. Điển hình là các nhà thơ: Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Thanh Thảo, Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu, Thi Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Nguyễn Trọng Tạo, Bằng Việt, Phan Thị Thanh Nhàn... Hàng loạt các tác phẩm có giá trị ra mắt công chúng, đặc biệt là thể loại trường ca có tính sử thi về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Đó là Nguyễn Khoa Điềm với “Mặt đường khát vọng”; Hữu Thỉnh với “Sức bền của đất”, “Đường tới thành phố”; Thanh Thảo với “Những người đi tới biển”, Trần Mạnh Hảo với “Mặt trời trong lòng đất”...
Thanh Hóa giai đoạn này cũng góp mặt nhiều tên tuổi: Vương Anh, Huy Trụ, Văn Đắc, Nguyễn Ngọc Quế, Anh Chi, Mã Giang Lân, Phạm Ngọc Cảnh, Nguyễn Bao, Từ Nguyên Tĩnh, Mạnh Lê, Lã Hoan, Đỗ Xuân Thanh, Mai Ngọc Uyển, Trịnh Thanh Sơn, Bùi Nhị Lê, Đào Phụng, Trịnh Ngọc Dự, Vũ Thị Khương... Nhìn chung, giai đoạn đầu sau chiến thắng 30/4 lịch sử, về mặt hình thức, thơ ca mang yếu tố truyền thống chiếm ưu thế nhưng về mặt thi pháp thì đã có nhiều biến đổi sâu sắc, với nhiều mới lạ có tính thẩm mĩ cao đem đến sự tiếp nhận cho người đọc một không gian đa chiều, thú vị hơn: Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra/ Ngày giỗ tết họ hàng nội ngoại/ Chị ngồi xuống mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền (Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh); Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất/ Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn (Đò Lèn - Nguyễn Duy); Giặc bỏ bom ngang/ Ta xây làng dọc/ Giặc bỏ bom dọc/ Ta dựng làng ngang/ Trận địa ta giăng hàng/ Rộng hơn vòng bom giặc (Làng sơ tán - Văn Đắc); "Ôi có phải khi cái chết nằm kề/ Người ta sống có linh hồn đến thế/ Ấy vì thế mà con không thể/ Ấy vì thế mà con trở về/ Nơi con đã sinh ra/ Nơi mẹ gọi tên con/ Tóc rụng trắng bàn thờ... (Trao lại cho con - Huy Trụ)...
Tự do hình thức câu chữ và sáng tạo nghĩa mới
Bên cạnh các nhà thơ quen thuộc từng trải qua chiến tranh, viết về chiến tranh, là một thế hệ các nhà thơ sinh ra trong chiến tranh, ít nhiều có tham gia chiến đấu, bảo vệ biên giới hoặc vì một lý do nào đó hoạt động trong các lĩnh vực khác ở hậu phương... Các nhà thơ thế hệ này nổi lên hai xu hướng: Một là, vẫn tuân theo và bảo vệ các giá trị thơ truyền thống nhưng thi pháp được “cách mạng” lên ở tầm cao hơn, khả năng liên tưởng, biểu cảm của từng câu thơ dồi dào, đa thanh, đa sắc. Điển hình xu thế này là các nhà thơ: Trần Đăng Khoa, Trương Nam Hương, Nguyễn Bình Phương, Lê Quang Sinh, Nguyễn Minh Khiêm. Hãy cùng lắng lại với những câu thơ của họ với chất trữ tình và tráng ca đầy xúc động: "Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng/ Biển một bên và em một bên/ Biển ồn ào, em lại dịu êm/ Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ/ Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía...“(Thơ tình người lính biển - Trần Đăng Khoa);”Tổ quốc tôi cong cong hình chữ S/ Sóng biển Đông dào dạt suốt chiều dài/ Nắng đủ ngọt để heo may làm mật/ Ngày tịch điền, vua cởi bỏ cân đai“(Tổ quốc tôi - Lê Quang Sinh);”Trong thời khắc cuối cùng của mùa đông/ Anh giã từ chính mình thật khẽ khàng/ Và anh là núi đồi mơ màng/ Chưa lìa xa bóng tối/ Ở bên kia lá từ từ rơi/ Trên những nóc nhà nghiêng trên cánh tay buông hờ sau rèm vải/ Một người ngước nhìn quá khứ bằng cái nhìn thân ái/ Người ấy chính là anh/ Anh là núi đồi mơ màng"... (Ban mai - Nguyễn Bình Phương); “Chân chúng tôi không giày, không dép/ Và có khi mất ngón, mất bàn/ Đầu chúng tôi nón mũ không còn/ Người hóa phù sa, người thành cát trắng/ Thành đầu đạn bay đi và thành lệnh bắn/ Chúng tôi chưa mơ dựng tượng bao giờ”... (Bầu trời màu hoa gạo - Nguyễn Minh Khiêm); “Mời em vào quán Thời gian/ Nâng ly ký ức uống làn hương xưa/ Mời em vào quán Không mùa/ Ta chia nhau ngọn gió mùa rét căm”... (Quán thời gian - Trương Nam Hương).
Khuynh hướng thứ hai đó là trào lưu thơ đề cao sự tự do của hình thức câu chữ và sáng tạo nghĩa mới. Những câu thơ hết sức tự do, gần với văn xuôi, thậm chí là nghiêng về tạo lập chữ hơn là cảm, câu đơn giản, phá vỡ cú pháp câu, chú trọng về mặt hình thức hơn (Tân hình thức), tách khỏi những giới hạn của truyền thống, cố gắng kích thích tối đa suy tư của độc giả... Nổi bật trong xu hướng này là Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Trương Đăng Dung,
Inrasara, Trần Quang Quý... “Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt/ Cơn mơ vang lên tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc/ Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn/ Tỏa mát xuống cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi/ Một cây ngô cuối vụ khô gầy/ Suốt đời buồn trong tiếng lá reo”... (Sông Đáy - Nguyễn Quang Thiều); "Em cất tiếng hát, khi tôi đánh/ thức em. Em đã có - đường nét/ và hình khối, dáng đứng với điệu/ cười. Apsara Apsara"... (Chuyện 12: Apsara- Inrasara); "Tôi lại về dưới mái nhà rêu mốc thả trong mơ/ Qua những khu vườn hồi hộp quá/ Tiếng chân trâu còn khấp khểnh giấc ngủ lão nông/ Cánh đồng hổn hển bầu ngực trễ nải thiếu phụ/ Làng cất nhọc nhằn vào bóng tối/ Đêm cất làng về thuở nghìn năm..." (Đêm ở làng - Trần Quang Quý).
Xu hướng này ở Thanh Hóa, với sự góp mặt của các cây bút có tác phẩm xuất hiện trên các báo, tạp chí Trung ương và địa phương, trong đó nhiều cây bút góp mặt ở cả 2 xu hướng như: Lê Quang Sinh, Nguyễn Minh Khiêm, Lâm Bằng, Viên Lan Anh, Phạm Thị Kim Khánh, Đinh Ngọc Diệp, Trương Vạn Thành. Và rất nhiều cây bút gần đây được bạn đọc quan tâm, là Hoàng Quốc Cảnh, Nguyễn Xuân Nha, Phạm Khang, Hải Minh, Hải Chinh, Nguyễn Trọng Liên, Nguyễn Duy Chinh, Nguyễn Ngọc Bỉnh, Lê Văn Sự, Cao Nguyên Quyền...
Cách tân thơ với hướng tìm tòi náo nhiệt
Một thế hệ trẻ mới tiếp nối với nhiều thể nghiệm đang hình thành, cố gắng học hỏi, bứt phá... Thơ đương đại hôm nay đã xuất hiện những tác giả cách tân thơ với hướng tìm tòi náo nhiệt. Họ sống hết mình với thơ, luôn tìm cách để “khoác” lên nàng thơ của mình “chiếc áo” mới cá tính nhất, phù hợp nhất. Trẻ là yếu tố góp phần làm thay đổi diện mạo văn học. Trẻ gắn liền với sự sung sức, sự phát hiện, bung phá thậm chí là gầm gào, mất trật tự, hay là sự vượt thoát đầy táo bạo. Họ - những người đa phần sinh sau năm 1975, trên dưới 40 tuổi, có sáng tác thành danh từ những năm 2000 đến nay, là Bình Nguyên Trang, Nguyễn Quang Hưng, Trương Trọng Nghĩa, Đoàn Văn Mật, Nguyễn Thị Kim Nhung, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Lữ Thị Mai, Hồng Thủy Tiên. Ở các địa phương, cũng có nhiều cái tên với sự tìm tòi, thể nghiệm, được giải thưởng ở các cuộc thi, mang đến sự đa dạng cho thi đàn như: Bùi Việt Phương (Hòa Bình), Trần Huy Minh Phương (Sóc Trăng), Phạm Thùy Vinh (Nghệ An), Lê Quang Trạng (An Giang), Nguyễn Hải Yến (Phú Thọ), Ngô Bá Hòa (Lạng Sơn), Hà Sương Thu (Bắc Cạn)...
Ở Thanh Hóa, các cây viết trẻ đã có những tác phẩm về truyền thống, lịch sử dân tộc Việt Nam, quê hương Thanh Hóa, nhưng vẫn mang được hơi thở hiện đại, tiêu biểu đó là: Văn Thành Lê, Vũ Tuyết Nhung, Phạm Tiến Triều, Mai Hương, Lê Tú Anh, Bùi Xuân Tứ, Nguyên Như, Lê Huyền, Lâm Trần, Mai Thị Hạnh Lê, Nguyễn Thúy Hạnh, Việt Hưng... Bởi thế, thơ ca rất cần được định hướng và tiếp sức để với các tác giả đã được định hình thì ngày càng “say” nghề, còn những tác giả mới được phát hiện, bồi dưỡng cũng chuyên tâm hơn cho thơ.
Nửa thế kỷ qua, phần lớn đội ngũ nhà thơ ở nhiều thế hệ đều là những cây bút giàu lòng yêu nước, những nhà thơ - chiến sĩ biết vượt lên thử thách, tìm tòi, khám phá để đem đến cho thi ca Việt sự đa dạng, tính biểu cảm, đậm dấu ấn tâm hồn Việt... Tương lai của thơ ca Việt Nam vẫn cần đến sự tiếp nối, trau dồi, vun đắp của thế hệ trẻ để nuôi dưỡng mạch nguồn, góp phần quan trọng cho sự phát triển của văn học nghệ thuật nói riêng, và rộng hơn là cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là kỷ nguyên mới đã mở ra - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.