Nông sản Việt: Chuẩn hóa chất lượng để đi đường dài

Xuất khẩu nông sản giờ đây không còn là 'cuộc chơi' của giá rẻ hay thị trường dễ tính. Khi các rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe, việc chủ động thích ứng từ vùng trồng đến chế biến, logistics… là điều kiện sống còn để nông sản Việt vững bước trên sân chơi toàn cầu.

Yêu cầu của các thị trường ngày càng cao

Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam (VINAFRUIT), kim ngạch xuất khẩu rau, quả trong tháng 5/2025 ước đạt 496 triệu USD. Lũy kế 5 tháng năm 2025, ước xuất khẩu rau, quả đạt 2,1 tỷ USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm 2024. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam, song cũng là nơi ghi nhận đà giảm sâu nhất. 4 tháng đầu năm, kim ngạch sang Trung Quốc đạt 777 triệu USD, giảm 33%.

Sản xuất theo chuỗi liên kết chuyên nghiệp để chinh phục các thị trường khó tính. Ảnh: M.H

Sản xuất theo chuỗi liên kết chuyên nghiệp để chinh phục các thị trường khó tính. Ảnh: M.H

Ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng thư ký VINAFRUIT cho rằng, xuất khẩu rau quả sụt giảm chủ yếu đến từ việc xuất khẩu sầu riêng chưa đạt được như kỳ vọng. Theo đó, từ cuối năm 2024 đến nay, thị trường Trung Quốc yêu cầu 100% lô hàng sầu riêng có xuất xứ từ Việt Nam phải có giấy kiểm nghiệm không tồn dư chất cadimi và vàng O (2 chất có thể gây ung thư) thì mới được thông quan.

Nói về vấn đề này, ông Ngô Xuân Nam - Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho hay, thị trường Trung Quốc thời gian qua liên tục thay đổi tần suất kiểm tra, nâng cao tiêu chuẩn dư lượng hóa chất và yêu cầu bổ sung về tem nhãn, mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói... Indonesia cũng vừa thông báo tới WTO về mô hình kiểm dịch tích hợp, đặt ra chuẩn mực mới cho hàng nhập khẩu. Nhật Bản, EU hay các nước Ả Rập cũng thường xuyên thay đổi các quy định về mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật.

Chưa hết, theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), EU vừa có văn bản đề xuất cử đoàn thanh tra đến Việt Nam trong tháng 6 này để kiểm tra, đánh giá các biện pháp kiểm soát thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật xuất khẩu sang khu vực này.

Ông Nam cảnh báo, trước đây, doanh nghiệp (DN) Việt thường ưu tiên xuất khẩu vào các thị trường được cho là “dễ tính”, ít rào cản kỹ thuật. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia, kể cả ASEAN hay Trung Đông, đều đã thiết lập và nâng cao biện pháp SPS, từ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đến truy xuất nguồn gốc… “Nếu DN không chủ động nắm bắt và tuân thủ quy định quốc tế, nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng rất lớn” - ông Nam nhấn mạnh đồng thời cho hay, để hỗ trợ DN thực thi hiệu quả, năm 2025, Văn phòng SPS Việt Nam phối hợp Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) triển khai Cổng thông tin quốc gia về SPS, cập nhật kịp thời các biện pháp SPS của thành viên WTO, hướng dẫn kê khai hồ sơ đúng chuẩn và cung cấp tài liệu dễ hiểu cho từng nhóm đối tượng. Đây là nền tảng kỹ thuật phục vụ DN, HTX và người sản xuất cập nhật kịp thời yêu cầu SPS và chủ động thích ứng.

Bên cạnh đó, Văn phòng SPS Việt Nam còn phối hợp các địa phương, tổ chức ngành hàng và cơ quan báo chí để triển khai nhiều chương trình truyền thông diện rộng. Các lớp tập huấn được tổ chức ngay tại vùng trồng, vùng nuôi để giúp HTX, DN hiểu và áp dụng đúng quy định.

Chuẩn hóa và sản xuất theo chuỗi chuyên nghiệp

Việt Nam đã và đang xuất khẩu nông sản, thực phẩm tới 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Do vậy, DN phải chủ động xây dựng các chuỗi liên kết, tổ chức sản xuất đáp ứng yêu cầu các biện pháp SPS theo từng thị trường. Logistics được xem là mạch máu của nền kinh tế, đặc biệt với quốc gia xuất khẩu nông sản hàng chục tỷ USD mỗi năm như Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống trung tâm logistics tại Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được các yêu cầu cốt lõi như kho lạnh đạt chuẩn, năng lực truy xuất nguồn gốc và tốc độ giao hàng cao.

Theo bà Đặng Hồng Nhung (Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công thương), hiện cả nước có 69 trung tâm logistics, tăng gần 10 lần so với giai đoạn 2007-2012. Tuy nhiên, phân bố không đồng đều và thiếu sự liên kết vùng khiến nhiều trung tâm hoạt động rời rạc, không tận dụng được lợi thế quy mô. Những vùng sản xuất trọng điểm như Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên..., nơi cung ứng phần lớn rau quả và thủy sản, vẫn thiếu cơ sở lưu trữ và phân phối chuyên biệt.

Thực tế này buộc nhiều DN xuất khẩu phải chia nhỏ hoạt động, thuê dịch vụ tạm thời hoặc tự đầu tư kho lạnh riêng lẻ, khiến chi phí tăng và thời gian giao hàng kéo dài.

“Việt Nam là quốc gia nông nghiệp lớn, nhưng vẫn thiếu hệ thống logistics tương xứng. Nếu không có trung tâm chuyên biệt, kết nối đồng bộ và tích hợp công nghệ, rất khó duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong những năm tới” - bà Nhung nói.

Để ngành nông sản nói chung, ngành rau quả nói riêng vững chân ở các thị trường, ông Lê Quốc Thanh - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho rằng, ngành nông sản, rau củ quả cần một bước chuyển căn cơ, toàn diện với sự vào cuộc mạnh mẽ của cả khối công và khối tư. Trong đó, cần thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị, với sự tham gia của DN, hợp tác xã, nông dân và cơ quan quản lý; tăng cường kiểm soát chất lượng từ vùng trồng đến đóng gói, chế biến, và triển khai các chương trình giám sát dư lượng hóa chất nông nghiệp... Nói cách khác, nông sản, rau quả Việt phải sản xuất theo chuỗi liên kết chuyên nghiệp.

Ông Ngô Xuân Nam - Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường):

Xuất khẩu nông sản buộc phải chuyển mình để thích ứng với các biện pháp kiểm dịch động thực vật từ các nước nhập khẩu. Mỗi thị trường, sản phẩm, ngành hàng có biện pháp SPS riêng.

Thậm chí, mỗi khách hàng, mỗi siêu thị lại có những tiêu chuẩn, quy định riêng. DN muốn đi "đường dài" cần chủ động chuẩn hóa vùng sản xuất, chủ động số hóa để minh bạch quy trình sản xuất và chủ động xây dựng thương hiệu sản phẩm thông qua chất lượng.

Khanh Lê

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/nong-san-viet-chuan-hoa-chat-luong-de-di-duong-dai-10307148.html
Zalo