'Đòn bẩy' giúp vải thiều Tân Yên chinh phục thị trường khó tính
Việc chuẩn hóa mã số vùng trồng và hệ thống truy xuất nguồn gốc giúp vải chín sớm Tân Yên (Bắc Giang) vững vàng chinh phục thị trường khó tính, đồng thời mở rộng cánh cửa phát triển nông sản minh bạch, chất lượng cao.
Chuẩn hóa chất lượng để “xuất ngoại”
Nếu như cách đây hơn một thập kỷ, vải thiều Tân Yên chỉ chủ yếu tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu thô sang Trung Quốc, thì đến nay, loại trái cây đặc sản này đã hiện diện tại nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu. Sự chuyển mình ấy không đến từ may mắn, mà là kết quả của quá trình chuẩn hóa sản xuất, truy xuất nguồn gốc và áp dụng công nghệ số theo lộ trình bài bản.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Giang, vụ vải năm 2025 toàn huyện Tân Yên có gần 1.400 ha vải thiều chín sớm được cấp mã số vùng trồng. Đáng chú ý, hơn 250 ha trong số này được quy hoạch phục vụ riêng cho xuất khẩu sang các thị trường yêu cầu tiêu chuẩn cao về vệ sinh an toàn thực phẩm, kỹ thuật canh tác, đặc biệt là kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

Vụ vải năm 2025 toàn huyện Tân Yên có gần 1.400 ha vải thiều chín sớm được cấp mã số vùng trồng. Ảnh: Linh Nguyễn
Đối với thị trường Trung Quốc, vốn là bạn hàng truyền thống, 17 mã vùng với tổng diện tích 856 ha, sản lượng dự kiến khoảng 9.400 tấn đã được cấp tại các xã Phúc Hòa, Liên Sơn, Hợp Đức, Tân Trung và thị trấn Cao Thượng. Thị trường Nhật Bản được phân bổ 3 mã vùng tại xã Phúc Hòa, diện tích 26 ha, sản lượng khoảng 300 tấn. Tương tự, Mỹ có 3 mã vùng (40,4 ha, sản lượng 350 tấn), Thái Lan có 5 mã vùng (62 ha, sản lượng 650 tấn).
Sản lượng vải xuất khẩu năm nay của Tân Yên ước đạt khoảng 9.500 tấn, trong khi thị trường trong nước tiêu thụ khoảng 3.500 tấn thông qua các kênh phân phối hiện đại như hệ thống siêu thị Central Retail, Mega Market, Winmart+, Lotte, GO! cùng các chợ đầu mối tại Hà Nội, TP.HCM và các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.
Cùng với việc chuẩn hóa sản xuất, nhiều doanh nghiệp đã sớm vào cuộc. Hiện có hai doanh nghiệp lớn là Công ty cổ phần Mova Plus và City Food đã ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm vải chín sớm Tân Yên. Các doanh nghiệp xuất khẩu truyền thống như VIFOCO, Ameii Việt Nam, Rồng Đỏ, Toàn Cầu… cũng xác nhận tiếp tục thu mua và đưa sản phẩm sang các thị trường khó tính.
Không đơn thuần là điều kiện để xuất khẩu chính ngạch, mã số vùng trồng và tem truy xuất điện tử còn đang trở thành công cụ quản lý nông nghiệp hiện đại, từng bước đưa người nông dân tiếp cận gần hơn với công nghệ số.
Ông Nguyễn Huy Ngọc, Phó chủ tịch UBND huyện Tân Yên cho biết, mỗi vùng sản xuất đều có sơ đồ canh tác, nhật ký điện tử và hệ thống giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật từ đầu vụ đến khi thu hoạch. Từng lô hàng được gắn mã QR, người tiêu dùng dù ở Việt Nam hay Mỹ, Nhật Bản đều có thể quét mã để biết thông tin chi tiết về vùng trồng, ngày thu hái, nơi đóng gói và tiêu chuẩn áp dụng.
Nông sản có truy xuất bán giá cao, dễ xuất khẩu
Thực tế cho thấy, giá bán của vải thiều có tem truy xuất thường cao hơn từ 10 - 15% so với hàng chưa được chuẩn hóa. Đây là minh chứng cho việc đầu tư vào minh bạch, truy xuất không làm tăng chi phí sản xuất mà còn tạo thêm giá trị gia tăng, nâng sức cạnh tranh cho nông sản Việt.
Tại một số hợp tác xã như Hợp tác xã Phúc Hòa, hình ảnh vườn cây, quy trình chăm sóc, nhật ký sản xuất từng ngày còn được tích hợp trên nền tảng số, tạo nên trải nghiệm minh bạch và tương tác hai chiều giữa người trồng và người tiêu dùng.
“Chúng tôi đầu tư phần mềm quản lý mã vùng, truy xuất sản phẩm vì hiểu rằng, muốn làm nông nghiệp hiện đại, phải có tư duy thị trường, hiểu yêu cầu nhà phân phối và người mua cuối cùng”, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Phúc Hòa khẳng định.

Vải thiều Bắc Giang được biết tới là một sản phẩm nông sản chất lượng cao, được người tiêu dùng trong và ngoài nước tin dùng. Ảnh: Linh Nguyễn
Ông Nguyễn Huy Ngọc, Phó chủ tịch UBND huyện Tân Yên cho biết, năm 2025 huyện Tân Yên cũng phối hợp với ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Giang mở rộng cấp mã số vùng trồng cho các loại cây ăn quả chủ lực như na dai, bưởi, hồng không hạt, nhằm hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, có khả năng kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu.
Song song đó, hệ thống dữ liệu vùng trồng đang được số hóa và tích hợp với nền tảng của doanh nghiệp phân phối trong và ngoài nước. Điều này cho phép nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp thu mua, nhà bán lẻ và người tiêu dùng cùng truy cập vào một hệ thống dữ liệu minh bạch, thống nhất, hạn chế tình trạng “sổ sách một nơi, thực tế một nẻo” như trước đây.
Về lâu dài, việc chuẩn hóa vùng trồng còn là nền tảng để ngành nông nghiệp Bắc Giang nói riêng, Việt Nam nói chung chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang mô hình sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có kiểm soát rủi ro, có tính liên kết và đáp ứng tốt yêu cầu thị trường thế giới.