Những dòng sôngchảy vào tâm thức
Quê tôi ở cuối dòng Sông Lam. Làng tôi nằm bên hữu cửa biển Hội Thống. Mỗi buổi sáng bước chân ra bến, ngước mắt trông ra là đã thấy Hòn Ngư và Hòn Mắt, hai đảo nhỏ tiền đồn xứ Nghệ. Xa quê gần bốn mươi năm, tôi vẫn hằng da diết nhớ về dòng Lam, những con nước như bồi như lắng ở nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn mình. Làm sao quên được tháng ngày xa xưa ấy, tôi và bạn bè đã mượn sông quê và cánh rừng ngập mặn làm 'công viên' cho tuổi thơ nghèo khó nhưng đầy ắp thiên nhiên. Làm sao quên được cái nắng trưa hè, dòng nước sông quê đã ban tặng mát lành cho những tâm hồn non trẻ. Cái lạnh của cơn mưa chiều đông rây hạt trên sông cũng giúp chúng tôi cứng cáp thêm khi phải đối diện với những bất trắc. Từ bờ Sông Lam, từ triền đê mênh mang nắng gió, mưa lũ và bão tố đã nuôi trong mỗi chúng tôi niềm khát khao kiếm tìm những chân trời mới lạ...

Cầu Yên Xuân nối đôi bờ Sông Lam. Ảnh: baonghean.vn
Sông Lam bắt nguồn từ cao nguyên Xiêng Khoảng với tên gọi đầu nguồn là sông Cả do hợp lưu hai dòng nhỏ Nậm Mộ, Nậm Nơm của nước bạn Lào. Chảy đến quê tôi, sông nở mình ra, dang rộng vòng tay tạm biệt đôi bờ trước khi xuôi ra biển theo cửa Hội Thống. Đoạn sông ấy đẹp và bình yên vô cùng. Bên tả ngạn và hữu ngạn của sông là hai dãy đê sừng sững. Quê tôi bên hữu, còn bên tả là huyện Nghi Xuân nức tiếng bởi có dòng họ Nguyễn ở làng Tiên Điền. Di thư kể lại, đại thi hào Nguyễn Du từng có những buổi chiều thơ thẩn phía bờ sông bên ấy để nghe nỗi lòng của đồ điếu, ngư tiều, tìm tiếng nói của ngô khoai kê đỗ nhằm mang hơi thở bình dân vào những áng văn trác tuyệt.
Thuở thiếu thời sớm vào cuộc mưu sinh nên tôi cóp dịp trải nghiệm suốt dọc dòng Lam. Phía thượng lưu, qua những khúc quanh co đầu nguồn, những bản làng heo hút, những thung lũng nắng gió, sông vẫn là Sông Lam dù có lúc là Sông Con, Sông Cái, Sông Giăng theo cách gọi mỗi vùng. Sông gắn với con người những xứ sở bên sông, người cũng hiểu cặn kẽ tâm tính của sông. Đến hạ lưu, với miền quê khắc nghiệt của tôi, dòng Lam như một lời an ủi, một sự ban ơn của Tạo Hóa. Trước bến quê, bao năm rồi tôi thấy sông vẫn hiền như thế. Sông cứ lành mặc cho trời đất dữ dằn, khốc liệt. Sông an nhiên tự tại như thiền sư hóa giải công án. Ở miền hạ du này, sông mở rộng lòng đón nước từ nguồn đổ về, từ màu đỏ của đất, màu nâu của đá, dòng nước lúc này đã được lọc thành trong khi hòa cùng với biển. Tên là Lam bởi nước sông xanh; nhưng cũng như đời người, trước khi xanh thì dòng sông ấy đã phải chở trên mình biết bao nhiêu đục. Tôi hiểu, dòng Lam quê tôi đã giấu trong mình nhiều nỗi âu lo, trầm luân, cát bụi từ thượng nguồn ra đến cửa bể.
Với tôi, dòng Lam quê nhà đã cho hương vị của bùn để hiểu nỗi gian truân, màu xanh của nước để không khuấy đục, cho sự mát lành của gió để hiểu tình yêu thương. Dòng sông ấy cũng chảy vào tôi đầy ắp giá trị từ trang sử quê hương và vốn văn hóa dân dã làm hành trang mang theo suốt cuộc đời…
Tôi lớn lên và xa sông quê suốt bấy nhiêu năm. Bước chân lữ hành đặt lên trăm miền quê xứ. Từ điệu ví câu giặm trên dòng Lam thuở nhỏ, tôi đã đến với nhiều dòng sông yêu thương suốt rộng dài đất nước; được hát điệu then với cô gái Tày nơi đầu nguồn sông Hồng, đã giao tình với cái liếc mắt của liền chị quan họ bên sông Cầu thơ mộng, thấu cảm với điệu hò ba lý khi thuyền trôi trên sóng nước Thu Bồn, trầm hồn trong điệu nam bình giữa con đò Hương Giang và hòa giai điệu đàn kìm với anh hai, chị ba miền sông nước Cửu Long. Tôi được yêu thêm nhiều xứ sở, được nghe nhiều khúc hát sinh thành bên mọi dòng sông để càng da diết nhớ về khúc hát dòng sông quê nhà. Mỗi lần gặp một dòng sông là trong tôi thêm một lần trào dâng cảm khái. Từ sâu thẳm tâm hồn một người con yêu Tổ quốc mình, tôi cảm nhận như những con nước trên đất Việt này đều đang chở nặng những trầm tích văn hóa, chở nặng những vinh quang và cả nỗi đau. Lịch sử của mỗi vùng đất đều được dựng nên từ những dòng bi tráng, mà trên nước non mình, những dòng sông luôn là chứng tích.
Còn nhớ lần ấy, trên đường từ Hải Phòng về với Quảng Ninh, xe dừng lại ở một bến phà có tên phà Rừng. Tôi hỏi một sĩ quan hải quân: Sông gì đây anh? Sông Rừng! Sao lại là Sông Rừng? Người địa phương gọi như vậy, còn nó chính là Bạch Đằng, anh ạ. Giây lát đó, tôi muốn lao ra quỳ xuống trước dòng sông với một niềm cảm xúc dâng trào. “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” là đây. Dòng nước vẫn thao thiết trôi như từ hơn một ngàn năm trước. Dòng sông lịch sử tôi cứ hình dung nhỏ lắm, mới có cảnh quân lính hai bên bờ nhảy ào xuống thuyền giặc. Nhưng người sĩ quan hải quân cười và chỉ cho tôi xem, trận địa của Ngô Quyền nằm trong dòng lạch nhỏ, nơi có những bụi cây mọc lúp xúp trên bùn. Bây giờ bãi cọc của Ngô Quyền và sau đó là Trần Hưng Đạo vẫn còn đó. Trong phút chốc, tôi đã hình dung ra hai trận đánh lịch sử thuở nào. Dù phà trôi yên bình mà nghe như có tiếng reo hò của ba quân tướng sĩ. Chao ôi, chuyện của ngàn năm trước mà như sóng nước Bạch Đằng Giang đang kể tôi nghe. Tôi cũng nhớ mãi những rặng cây đay bên bờ sông Thái Bình rũ mình vươn ra biển lớn. Dòng sông mang cái tên đẹp ấy dẫn tôi qua những cánh đồng phì nhiêu, những vườn cây tốt tươi, gặp gỡ những con người cần cù, nhân hậu và được thả hồn theo điệu chèo mát rượi sân đình. Tôi cũng từng được nhiều lần thả hồn miên man giữa những làng Quan họ Kinh Bắc bên con Sông Cầu đẹp da diết như lời ca mời rượu. Rồi cũng từng ngắm hoàng hôn tím sẫm lưng trời Lạng Sơn như ánh mắt cô phụ dùng dằng vó ngựa chinh phu nhận lệnh vua vượt núi cao trấn ải. Có một đêm giữa miền biên viễn ấy, tôi không thể chợp mắt khi dưới kia dòng Kỳ Cùng vẫn lặng lẽ ngược về hướng Bắc. Kỳ Cùng vắt mình qua thành phố Lạng Sơn như một nét sổ trong bài thơ quan tái bên dãy Mẫu Sơn sừng sững ở phía trời đông. Hình ảnh ấy, cảm xúc ấy, tôi đã lưu vào ký ức đời mình.
Không biết bao lần tôi có dịp ngược xuôi Bến Hải và đứng bên thành cầu Hiền Lương ngắm dòng sông thực tại mà tâm hồn xao động bởi những ký vãng về nỗi đau đất nước. Nơi này từng là biểu tượng của đất cách, sông ngăn. Chuyện từ dòng sông giới tuyến chia đôi con nước được viết nên bởi máu và nước mắt. Xưa, những cuộc tranh chấp và biến động vài chục thập kỷ sơn hà mới về một mối. Nay, cuộc đấu tranh bền bỉ suốt 18 năm đến ngày Quảng Trị giải phóng và 21 năm khi nước nhà thống nhất mới trả lại dòng chảy tự do của sóng nước Bến Hải; trả lại đôi bờ trọn vẹn đủ 178 m, 7 nhịp, 894 tấm ván lát liền một dải, đồng nhất một màu sơn cho cây cầu lịch sử Hiền Lương...
Đại ngàn Tây Nguyên có nhiều dòng sông hùng vĩ, nhắc tên ai cũng nhớ, nhưng giờ đây tôi muốn kể về một dòng sông nhỏ, đó là dòng Đạ Lôi. Dòng sông này bắt nguồn từ nơi tụ hợp của những con suối trên đại ngàn Bidoup, lúc vượt qua thác ghềnh, lúc lững lờ cùng những thảm rừng, những trảng cỏ mênh mông. Về đến miền Lạc Dương (Lâm Đồng) thì đồng bào thiểu số gọi tên là Đạ Lôi, nghĩa là “dòng sông mơ tưởng”. Điều thú vị ngạc nhiên là chỉ qua một quãng nữa thôi Đạ Lôi đã biến thành K’rông Nô (dòng Sông Cha) nổi tiếng phía xứ sở của người Mnông Gar (Đắk Lắk). Rồi cũng chỉ thêm một quãng nữa, “dòng Sông Cha” vượt dãy Chư Yăng Sin rồi lại hợp hôn với “dòng Sông Mẹ” Krông Ana ở xứ sở của người Ê Đê để sinh thành con sông Sêrêpốk huyền thoại. Sêrêpốk là một trong những con sông Việt Nam có dòng chảy lạ lùng. Con nước bắt nguồn từ phía Nam Tây Nguyên, ngược lên nước bạn Campuchia, nhập vào Biển Hồ rồi từ đó hòa vào đại trường giang Mê Kông. Đến lúc này thì Sêrêpốk lại góp nước của mình xuôi về Cửu Long Giang và đổ ra Biển Đông nước Việt. Con sông ấy chọn dòng trôi miên man qua biết bao xứ sở rồi cuối cùng trở về với mạch nguồn đất mẹ, với nơi chốn sinh thành. Thiên nhiên thật kỳ thú, cũng như dòng chảy lịch sử và văn hóa của đất nước Việt Nam lắm sông, nhiều núi. Kể thêm câu chuyện về dòng sông nguồn Đạ Lôi, tôi muốn gửi gắm suy ngẫm về một cái lẽ rất riêng của mỗi đời sông mà không ai có thể tận hiểu. Cái lẽ ấy hiển hiện rất rõ ràng mà quả thật không dễ gì lý giải...
Mỹ cảm sâu sắc nhất là nguồn mỹ cảm không có kết quả trọn vẹn. Đời sông cũng như số phận con người. Mỗi một đời người có lúc thăng khi giáng, lắm hạnh phúc và cũng nhiều khổ đau. Đời của mỗi dòng sông cũng vậy, có bên bồi và có bên lở. Sông và người nương vào nhau mà sống, cũng có lúc tựa vào nhau mà chết. Sông ơi, sông chảy về đâu? Hỏi sông câu ấy, sông chỉ biết miên man con nước mà không thể trả lời. Người nhớ sông da diết thì dòng chảy của dòng sông yêu thương sẽ lặng lẽ trôi vào dòng tâm thức như một lẽ tự nhiên.