Những chướng ngại trên con đường bứt phá của kinh tế Việt Nam
Chiến tranh thương mại và kinh tế toàn cầu giảm tốc gây áp lực lên xuất khẩu, chuỗi cung ứng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bứt phá trên 8% Chính phủ đề ra cho năm nay, đang đối mặt với nhiều thách thức đến từ các nền kinh tế lớn - những thị trường xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam.
Các doanh nghiệp trên toàn cầu hiện vẫn đặc biệt quan tâm đến hai rủi ro chính là căng thẳng địa chính trị, đặc biệt là chiến tranh thương mại và công nghệ, cùng tốc độ tăng trưởng chậm lại của một số nền kinh tế lớn trên thế giới.
Đây là quan điểm được ông Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV nhấn mạnh tại Hội thảo “Cơ hội đầu tư trong bối cảnh mới” do Tạp chí Nhà đầu tư vừa tổ chức.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay chỉ đạt khoảng 2,7%, thấp hơn đáng kể so với giai đoạn trước dịch, khi tăng trưởng trung bình đạt khoảng 3%.
Trong bối cảnh đó, ông Lực cho biết hai đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam là Trung Quốc và Mỹ đều đang tăng trưởng thấp hơn so với kỳ vọng.
Trung Quốc, dù đặt mục tiêu tăng trưởng 5%, nhưng dự báo có thể chỉ đạt khoảng 4,5%, ngay cả khi chính phủ nước này đang thực hiện hàng loạt các biện pháp kích cầu mạnh mẽ.
Trong khi đó, kinh tế Mỹ cũng đang suy giảm với dự báo tăng trưởng năm nay chỉ khoảng 1,5%, thấp hơn mức 2% được dự báo trước đó.
Mỹ và Trung Quốc dự báo tăng trưởng chậm hơn đặt ra những thách thức đáng kể đối với Việt Nam khi hai cường quốc này là đối tác lớn nhất của Việt Nam về các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, đổi mới sáng tạo và nhiều lĩnh vực khác.
Một rủi ro lớn khác mà thế giới đang phải đối mặt hiện nay chính là chính sách thương mại.
“Chúng ta có thể thấy rất rõ mức độ gia tăng đột biến của rủi ro này, đặc biệt kể từ khi ông Trump chuẩn bị nhậm chức từ nhiệm kỳ đầu tiên cho đến nay. Xu hướng này đang quay trở lại với những diễn biến còn căng thẳng hơn trong bối cảnh hiện tại”, ông Lực cho biết.
Rủi ro thương mại này đã được các doanh nghiệp trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam, đánh giá sẽ dẫn đến tốc độ tăng trưởng thương mại toàn cầu chậm lại đáng kể.
Dự báo cho thấy tăng trưởng thương mại toàn cầu có thể chỉ đạt khoảng 3%, thấp hơn so với mức 3,4% của giai đoạn trước.

Kim ngạch xuất nhập khẩu với các đối tác chính trong năm 2024. Ảnh: Tổng cục Thống kê, BIDV
Đối với Việt Nam, trong tháng 1 vừa qua, xuất khẩu đã suy giảm chủ yếu do yếu tố chu kỳ Tết và phần nào bắt đầu chịu tác động từ chiến tranh thương mại. Sang tháng 2, xuất khẩu có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn chưa đạt mức như giai đoạn trước.
Điều này cho thấy chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động thương mại của Việt Nam.
“Vì vậy, năm nay, Bộ Công thương và Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu ở mức khoảng 12%. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây là một mục tiêu đầy thách thức. Theo dự báo của tôi, mức tăng trưởng xuất khẩu chỉ có thể đạt khoảng 8-10%", ông Lực nhận định.
Ngoài ra, vị chuyên gia BIDV cũng lưu ý số liệu xuất khẩu năm ngoái của Việt Nam sang Mỹ tăng 23%, song nhập khẩu từ Trung Quốc tăng thêm 30%.
Do đó, ông Lực kiến nghị Chính phủ cần quan tâm đến rủi ro trung chuyển hàng hóa và các doanh nghiệp cần chuyển trạng thái, minh bạch hóa xuất xứ hàng hóa Việt Nam.
Cùng chung quan ngại về các ảnh hưởng của các chiến tranh thương mại tới nền kinh tế, TS Hồ Sỹ Hòa, Giám đốc phân tích công ty chứng khoán DNSE đánh giá Việt Nam là một quốc gia có độ mở kinh tế lớn nên chịu tác động nhiều từ thương chiến.
Thực tế, ông Hòa cũng chỉ ra chiến tranh thương mại lần đầu tiên dưới thời Tổng thống Trump đã bùng nổ từ năm 2018, lúc đó Mỹ bắt đầu áp thuế từ 10% và tăng lên 25% lên 50 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc.
Ngược lại, Trung Quốc đáp trả tương ứng khi đánh thuế với 128 mặt hàng từ Mỹ ngay trong năm 2018.
Theo số liệu công bố, Việt Nam là quốc gia có độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm ngoái đã vượt 780 tỷ USD, chiếm gần 170% GDP, bao gồm kim ngạch thương mại 204 tỷ USD với Trung Quốc và 134,6 tỷ USD với Mỹ.
Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ cao như dệt may (với tỷ trọng 36,07%), giày dép (11,02%), thủy sản (6,11%); còn kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là điện thoại (24%), máy vi tính (21%) và hàng rau quả (8%).
Kim ngạch nhập khẩu từ Mỹ chủ yếu là mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (28,1%) và máy móc khác (7,4%). Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (24%) và máy móc khác (22%).
Số liệu trên cho thấy mức độ ảnh hưởng cao vào các đối tác thương mại như Mỹ và Trung Quốc nên chiến tranh thương mại mang đến rủi ro làm gián đoạn chuỗi cung ứng.
Đặc biệt, khi Việt Nam nhập 40% nguyên liệu dệt may và 60% linh kiện điện tử từ Trung Quốc nên nếu thuế quan tăng sẽ khiến chi phí sản xuất tăng 10-15% trong một số ngành.
Bên cạnh đó, về vấn đề gian lận xuất xứ, ở giai đoạn 2019-2023, Mỹ điều tra hơn 20 vụ liên quan đến hàng hóa “đội lốt” qua Việt Nam, trị giá hàng tỷ USD. Ví dụ, thép Việt Nam từng bị Mỹ áp thuế 456% năm 2019 đối với một số sản phẩm thép từ Việt Nam.
Trong nguy có cơ
Dù vậy, theo các chuyên gia, đây cũng là cơ hội để chúng ta có thể hài hòa được các xung đột và lợi ích, tận dụng sự dịch chuyển của Trung Quốc. Chiến tranh thương mại mở ra nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam và nhiều lĩnh vực có thể được hưởng lợi.
Đầu tiên, năm 2024 đánh dấu bước ngoặt quan trọng khi Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, đón dòng vốn đầu tư dịch chuyển từ Trung Quốc theo chiến lược “Trung Quốc+1”.
Các doanh nghiệp Trung Quốc trong lĩnh vực dệt may, điện tử chọn Việt Nam để tránh giảm rủi ro địa chính trị. FDI đạt 38,23 tỷ USD, trong đó 30% đến từ các công ty “Trung Quốc+1”.
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo dẫn đầu với 35,7% tổng vốn năm 2024 và tăng vọt lên 71% trong tháng 1/2025, theo sau là bất động sản với 11,7% năm 2024 và 35% tháng 1/2025.
Theo đó, bất động sản khu công nghiệp hưởng lợi lớn, giá thuê đất phía Bắc tăng 4% lên 120-150 USD/m2, mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư như Becamex-VSIP, Viglacera, Kinh Bắc, Senadozi nhờ nhu cầu thuê đất tăng mạnh.
Ngoài ra, đây cũng là thời cơ để Việt Nam phát huy lợi thế xuất khẩu sang EU với các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, điện thoại và linh kiện.
Đặc biệt, ngành thép vẫn đạt sản lượng 21,98 triệu tấn, tăng 14%, nhờ nhu cầu nội địa và chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc dù đối mặt thách thức từ thuế Mỹ (áp thuế 25% từ 4/3/2025), điều tra chống bán phá giá của EU (từ 31/7/2024) và thuế 30% của Ấn Độ.
Đồng thời, đây cũng là thời cơ để các ngành xuất khẩu nông thủy sản, hạ tầng cảng biển… cải thiện chất lượng nội tại, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và phát huy lợi thế, đa dạng hóa xuất khẩu sang các thị trường khác như EU, Ấn Độ.