CEO PNJ 'hiến kế' xuất khẩu vàng trang sức thu ngoại tệ cho Việt Nam
Lãnh đạo doanh nghiệp vàng bạc đá quý gần 40 năm tuổi cho rằng ngành sản xuất vàng trang sức của Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn dù mang tiềm năng rất lớn.

Ông Lê Trí Thông, Tổng giám đốc PNJ phát biểu tại tọa đàm ngày 20/3. Ảnh: Hoàng Triều.
Tại tọa đàm “Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân” do Báo Người Lao Động tổ chức ngày 20/3, ông Lê Trí Thông, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ TP.HCM, Tổng giám đốc Công ty CP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ), đã đưa ra nhiều kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến ngành vàng trang sức.
Với ngành vàng trang sức - nơi PNJ là doanh nghiệp trực tiếp tham gia - ông Lê Trí Thông cho rằng cần có sự phân biệt rõ ràng giữa vàng miếng và vàng trang sức, bởi dù cùng là vàng nguyên liệu nhưng tính chất và mục đích sử dụng của 2 loại vàng này hoàn toàn khác nhau.
Việc gom chung 2 loại vàng vào một nhóm khiến ngành vàng trang sức gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong hoạt động nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất.
Kiến nghị cơ chế để xuất khẩu vàng trang sức
Ông dẫn chứng rằng nếu coi vàng trang sức là sản phẩm tiêu dùng thông thường thì nhu cầu nhập khẩu vàng nguyên liệu cho sản xuất vàng trang sức chỉ khoảng 1-2 tỷ USD/năm, tương đương với nhiều ngành sản xuất tiêu dùng khác như mỹ phẩm hay điện thoại.
Tuy nhiên, do các chính sách kiểm soát vàng áp dụng chung với cả vàng miếng và vàng trang sức hay áp lực từ tỷ giá khiến Nhà nước phải hạn chế nhập khẩu vàng dẫn đến ngành vàng trang sức bị hạn chế nguồn cung nguyên liệu, gây ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Không chỉ gặp khó khăn về nguyên liệu, ngành vàng trang sức Việt Nam còn đang đối diện với tình trạng "chảy máu chất xám". Theo ông Thông, hiện nay, nhiều thợ kim hoàn lành nghề đang dần rời bỏ ngành để chuyển sang các lĩnh vực khác, khiến nguy cơ mai một tay nghề truyền thống ngày càng lớn.
Đây là một thực trạng đáng lo ngại, bởi lực lượng lao động của Việt Nam trong lĩnh vực này không hề thua kém Thái Lan hay Indonesia, những quốc gia đã phát triển ngành trang sức thành ngành xuất khẩu thế mạnh.
Từ những phân tích trên, Tổng giám đốc PNJ kiến nghị Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ riêng cho ngành vàng trang sức, thay vì áp dụng các quy định chung cho toàn bộ ngành vàng.
Cụ thể, cần có cơ chế cho phép doanh nghiệp nhập khẩu vàng nguyên liệu một cách linh hoạt để sản xuất trang sức phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm vàng trang sức, biến ngành này thành một trong những ngành xuất khẩu quan trọng, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Cần "cao tốc" cho doanh nghiệp tư nhân bứt phá
Ngoài ra, ông Thông cũng đánh giá nền kinh tế Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới với nhiều cơ hội để bứt phá. Tuy nhiên, khác với thời kỳ đổi mới trước đây khi nền kinh tế chủ yếu tập trung vào việc khai phóng và “phá rào”, thì hiện nay, chiến lược phát triển cần được hoạch định bài bản với những “đặt cược chiến lược” vào các ngành mũi nhọn.
Ông lấy ví dụ tại Trung Quốc, quốc gia này đã thành công khi tập trung đầu tư vào ngành xe điện, Việt Nam cũng cần có chiến lược rõ ràng trong việc lựa chọn các ngành ưu tiên.
Trước đây các doanh nghiệp tư nhân phải đi trên "đường quốc lộ" với nhiều chướng ngại vật, thì nay cần có một “cao tốc” giúp họ bứt phá và đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế
Tổng giám đốc PNJ Lê Trí Thông
Ông Thông nhấn mạnh rằng để doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn, Nhà nước cần xây dựng môi trường thể chế thuận lợi, tạo điều kiện cho dòng vốn chảy vào nền kinh tế và nâng cao năng lực của doanh nghiệp tư nhân. Ông ví von rằng nếu trước đây các doanh nghiệp tư nhân phải đi trên “đường quốc lộ” với nhiều chướng ngại vật, thì nay cần có một “cao tốc” giúp họ bứt phá và đóng góp nhiều hơn vào nền kinh tế.
Một trong những đề xuất quan trọng của CEO PNJ là xây dựng các quỹ đầu tư chung giữa khu vực công và tư, nhằm huy động hiệu quả nguồn lực của cả Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân theo cơ chế thị trường.
Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết nối trong hệ sinh thái kinh tế, không chỉ giữa doanh nghiệp với chính sách, mà còn giữa doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ để hình thành một hệ sinh thái vững mạnh.
Ông Thông cũng đề cập đến mô hình phát triển của Hàn Quốc trước năm 1997 khi họ tập trung phát triển các tập đoàn lớn (chaebol) để tạo động lực cho nền kinh tế. Đây là một chiến lược mà Việt Nam có thể tham khảo và điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế trong nước.
Việc xây dựng các doanh nghiệp dẫn dắt ngành, cùng với chính sách hỗ trợ đúng hướng, sẽ giúp ngành vàng trang sức Việt Nam phát huy được tiềm năng và vươn tầm quốc tế.