Nhớ về nghề báo
Trong 36 năm công tác cho đến ngày nghỉ hưu, tôi đã có 30 năm gắn bó với nghề làm báo với một cơ quan duy nhất là Báo Quảng Trị (cũ). Trước đó 6 năm, tôi công tác trong ngành giáo dục ở tỉnh Phú Khánh (cũ).

Nhà báo tác nghiệp tại hiện trường mùa nắng hạn -Ảnh: Huy Quân
Tháng 7/1989, tỉnh Quảng Trị được lập lại còn thiếu nhiều cán bộ cho các đơn vị, sở, ban, ngành...đó là cơ hội để chúng tôi được trở về quê công tác. Lúc này, việc xin chuyển về ngành giáo dục công tác vẫn còn khó khăn nên một số người khuyên tôi nên chuyển công tác về ngành Tuyên giáo hay Báo Quảng Trị (là những cơ quan còn thiếu nhiều cán bộ).
Khi nộp đơn xin chuyển công tác về Báo, yêu cầu của lãnh đạo là người xin việc phải có ít nhất 3 bài viết đã được đăng trên các báo trung ương và địa phương. Cũng may là mặc dù học ở trường sư phạm nhưng tôi luôn thích viết bài.
Năm thứ 2 ở đại học, tôi đã có bài viết đăng trên Báo Tiền Phong, sau đó là bài khác đăng ở Báo Dân của tỉnh Bình Trị Thiên và một số bài đăng ở tập san của ngành giáo dục tỉnh ĐăkLăk. Một số yêu cầu khác về lý lịch chính trị của bản thân và gia đình tôi đều đáp ứng được. Đầu tháng 12/1989 tôi được Tỉnh ủy ra quyết định tiếp nhận về công tác ở Báo Quảng Trị và công tác ở đó suốt 30 năm, cho đến đầu năm 2020 thì nghỉ hưu.
Nhớ những ngày đầu tiên đến làm việc ở một cơ quan báo chí, tôi không khỏi lúng túng, bỡ ngỡ, không biết mình phải làm gì? Ngồi ở cơ quan thì không có gì để viết, họp hành thì mỗi tuần chỉ được 1-2 lần.
Làm báo không phải là công việc hành chính ngồi 8 tiếng ở cơ quan. Nhưng hằng ngày tôi vẫn tới ngồi để đọc báo hoặc làm những việc lặt vặt. Thấy tôi ngồi lỳ nhiều giờ ở cơ quan, đồng chí Phó tổng biên tập nói: “Em phải đi về các địa phương, đơn vị tìm người, tìm việc mà viết”. Nghe đồng chí lãnh đạo khuyên vậy tôi mới “bừng tỉnh” về công việc của mình.
Trước đó mấy hôm được cơ quan cử đi dự hội nghị cuối năm của ngành Văn hóa-Thông tin, trong phần phát biểu của các đại biểu, ông Bí thư Đảng ủy xã Hải An, huyện Hải Lăng phản ánh những khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt của địa phương. Câu chuyện của ông để lại những ấn tượng khó quên nên tôi xin cơ quan giấy công tác đi về xã Hải An.
Hồi đó tỉnh Quảng Trị mới tái lập nên cơ sở vật chất của các địa phương rất thiếu thốn, đường đi lại cách trở, hầu hết là đường đất nhỏ hẹp, lầy lội. Từ Đông Hà đi Hải An khoảng 30 km, vậy mà tôi phải đạp xe băng đồng, băng cát từ buổi sáng đến quá trưa mới tới được địa phương này. Quả là một xã vùng biển bãi ngang quá nghèo. Nhà dân thưa thớt với những ngôi nhà mái tôn cũ kỹ, lụp xụp; những chiếc thuyền thúng nhỏ bé; xóm làng có phần xơ xác, đường đi lại toàn cát, nhiều chỗ bị nước mưa cuốn trôi nên giao thông cách trở.
Làm việc xong, tôi được ông Bí thư Đảng ủy xã mời ăn cơm tại nhà ông. Quá trưa nên cơm canh đều nguội, tôi nhớ nhất là trong các món ăn có dĩa đu đủ xào với mỡ heo, ăn rất ngon. Vì so với gia đình tôi hồi đó còn khó khăn muốn ăn tóp mỡ đủ cũng không có, hằng ngày chỉ có điệp khúc rau khoai hoặc rau muống.
Sau 4-5 ngày vừa viết, vừa tẩy xóa, viết đi, viết lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hoàn thành bài viết “Về Hải An” khá sinh động, với nhiều số liệu, chi tiết cụ thể, chân thực, xác đáng nên được bộ phận biên tập của báo chọn đăng ngay, không bị cảnh “nhồi lên nhét xuống” hoặc sửa chữa nhiều lần. Đó là bài đầu tiên tôi được đăng ở Báo Quảng Trị. Khi báo xuất bản tôi cũng rất vui vì được cơ quan trả nhuận bút 8.000 đồng. Tôi dùng số tiền ấy ra chợ Đông Hà mua được 1 kg thịt heo về cùng với gia đình có được bữa ăn tươi ngon. Như vậy nếu so với nghề dạy học hằng tháng chỉ được nhận tiền lương, thì làm nghề viết báo ngoài tiền lương cố định còn có thêm nhuận bút nên cuộc sống sẽ tốt hơn.
Sau đó một thời gian tôi đạp xe ra Gio Linh, tình cờ gặp một bà mẹcó nhiều đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng nhưng cuộc sống của bà hiện nay còn khó khăn. Bà còn có nỗi buồn là khi gặp lại một số cán bộ, đồng đội cũ trước đây từng công tác hoặc được bà nuôi nấng, che chở thì nay họ ít cởi mở, ít gần gũi, thân thiện làm cho bà cảm thấy mủi lòng...Bài viết ấy như một câu chuyện kể về tình người trước và sau chiến tranh, tôi đặt tên cho bài viết là “Chiến công và nỗi buồn”, khi đưa lên bộ phận biên tập sửa lại là “Những giọt nước mắt tủi hờn”.
Tôi không thích cái đề bài này lắm nhưng biết làm sao được. Cũng may là bài viết có nhiều chi tiết xúc động nên được nhiều người tìm đọc. Một đồng chí lãnh đạo cấp cao của tỉnh tới Tòa soạn Báo hỏi thăm về người viết bài nhưng không gặp. Sau đó ông cùng với lái xe ra huyện Gio Linh tìm gặp bà mẹ có tên trong bài báo để an ủi, động viên bà. Tôi nghĩ rằng đó là một nghĩa cử rất cần thiết đối với những người từng cưu mang cán bộ, từng cùng chung chiến hào ấm lạnh ngày xưa.
Bên cạnh chuyện vui về những bài viết được người đọc quan tâm, nhớ tới trong quá trình hành nghề tôi cũng gặp không ít những chuyện buồn, phiền phức, lo lắng. Do được cơ quan phân công làm việc ở bộ phận nội chính nên nhiều lần phải đi điều tra phanh phui những sự việc tiêu cực ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương. Bài viết chống tiêu cực đã động chạm đến một số người, làm cho họ cảm thấy bực tức, khó chịu, xa lánh.
Nhớ một lần được bạn đọc cung cấp tư liệu, tôi đi nắm thêm thông tin, xác minh vụ việc rồi viết bài về những tiêu cực ở một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Khi bài báo ra đời ông giám đốc đơn vị ấy rất bực tức (đó cũng là điều dễ hiểu) và có những biểu hiện trả thù. Một số người trong đơn vị của ông biết được thái độ này nên tới Báo Quảng Trị tìm gặp tôi và khuyên thời gian này nên hạn chế đi ra bên ngoài, nếu có đi đâu thì đi 2 người để tránh gặp những chuyện không may.
Sau đó mấy ngày, một số người thân tín của ông giám đốc đã tới cơ quan tìm gặp tôi để nói chuyện “phải quậy”, cũng may là bữa đó tôi đi công tác. Nếu như hôm đó có mặt ở cơ quan, tôi dễ bị họ “hỏi chuyện” hoặc hứng chịu những lời nói nặng nề như đã từng xảy ra với những người làm báo chống tiêu cực.
Ngoài ra cũng có một số người khi đơn vị, địa phương của họ bị báo phanh phui chuyện tiêu cực thì họ lợi dụng mối quan hệ quen biết với cấp trên để gọi điện tới lãnh đạo cơ quan Báo Quảng Trị cho rằng vì bài viết của anh A, anh B mà cơ quan họ mất danh hiệu đơn vị văn hóa, hoặc có trường hợp vì báo phản ánh mà cán bộ không được tăng lương, không được lên vị trí cao hơn như dự kiến...
Người bị phản ánh những câu chuyện tiêu cực thì buồn, có phần căm giận nhưng bản thân người viết báo cũng chẳng phải vì thế mà vui sướng hơn, cũng không được nhận phần thưởng gì, đó là công việc, trách nhiệm phải làm. Mặt khác người dân rất tin tưởng, kỳ vọng vào báo chí, nếu không phanh phui mặt đen tối, tiêu cực thì cái xấu, cái ác rất dễ lộng hành.
Nghề làm báo đã được Nhà nước quan tâm rất thiết thực nhưng nghĩ cho cùng đó là công việc khó khăn, nặng nhọc, phải thao thức trằn trọc với từng con chữ, suy nghĩ thật kỹ khi đặt bút viết để tránh những hậu quả không đáng có.
Người viết phải đưa tin đúng sự thật, đề cao trách nhiệm công dân. Không thể đứng bên này, bên nọ hoặc vì một lý do nào đó mà đưa thông tin sai, làm cho uy tín, danh dự của một số cá nhân, tập thể bị ảnh hưởng. Lúc đó uy tín, danh dự của người làm báo cũng chẳng tốt đẹp gì.
30 năm làm nghề báo có không ít chuyện vui, chuyện buồn. Nhưng tôi luôn cố gắng làm việc hết mình, luôn khách quan và thận trọng trong công việc, mặc dù vậy không tránh khỏi một số hạn chế, sai sót. Vậy nhưng cũng rất tự hào về nghề báo bởi đã giúp chúng tôi đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, học được những điều hay lẽ phải để mỗi bài viết của mình, mỗi việc mình làm có ý nghĩa thiết thực hơn.