Nhớ người ẩn mình trong ngõ nhỏ
Những năm trước, cùng nhà thơ Vũ Từ Trang, chúng tôi hay đến con ngõ nhỏ nằm giữa phố Đội Cấn và phố Hoàng Hoa Thám. Trong ngõ này chúng tôi có những người bạn thân thiết như nhà thơ Nguyễn Phan Hách, nhà văn Phạm Ngọc Luật, họa sĩ Văn Sáng, cùng họa sĩ Hương Quân, người bạn gái của nhà thơ Phùng Quán. Và nhất là nơi đây còn có nhà văn Nguyễn Bản, một người bạn, một người anh mà chúng tôi rất kính trọng.
Nhưng bây giờ tôi không còn đến nhiều như xưa bởi lẽ nhà thơ Nguyễn Phan Hách đã mất, nhà văn Nguyễn Bản cũng đã ra đi được hai năm rồi và người bạn thân như ruột thịt luôn đi cùng tôi hay đến nơi đây là nhà thơ Vũ Từ Trang cũng đã mất. Thật buồn. Đến ngõ, xưa vốn sầm uất mà nay sao cảm như thưa vắng quá
Tuy ít đến nhưng trong tôi vẫn luôn nhớ đến nhà văn Nguyễn Bản cùng những kỉ niệm khó quên đã có trong chúng tôi suốt nhiều năm.

Nhà văn Nguyễn Bản.
Nói đến nhà văn Nguyễn Bản người ta hẳn phải nghĩ ngay tới các tác phẩm nổi tiếng của ông như "Mùi tóc Thảo", "Cơn lũ", "Ánh trăng", "Rừng đêm cuối năm", "Cơn giông cuối mùa", "Đường phố lòng tôi", hay "Nợ trần gian"… những thiên truyện ấy được coi là hay đến độ hoàn mỹ, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhận được nhiều giải thưởng văn học và từng ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét về Nguyễn Bản: "Văn Nguyễn Bản viết kĩ, lời văn mượt mà, câu văn chuẩn mực, thiên về truyện tâm lý. Nếu muốn đi tìm một cái gì tiếp nối truyền thống của văn Nguyễn Bản thì có lẽ nên nghĩ đến Thạch Lam chăng? Và nếu như văn của Thạch Lam có một không khí hết sức bình yên, dường như không có chút xao động nào của thế sự thì truyện của Nguyễn Bản không bao giờ tách rời những diễn biến phức tạp của thời cuộc".
Đọc kĩ, thấy hầu hết những truyện của Nguyễn Bản như không có cốt truyện gay cấn, ly kì nhưng lại cực kì hấp dẫn, thấy rõ ra chân dung tác giả cùng những kỷ niệm mà có cảm giác như tất cả đã hằn sâu trong ông.
Nguyễn Bản tuy sinh trưởng ở nông thôn Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh nhưng thời gian sống ở quê không nhiều. Mới hơn mười tuổi ông đã được gia đình cho ra Hà Nội học. Rồi tản cư ông lên Thái Nguyên, sau ông lại về Hà Nội học tiếp và thi vào Trường Đại học Sư phạm, khoa văn, khóa đầu tiên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Năm 1956, ông tốt nghiệp ra trường và được điều động về dạy học ngay tỉnh nhà. Nhưng rồi ông vướng vào một tai nạn nghề nghiệp, ông không còn được đứng lớp và rồi từ giáo viên ông bị chuyển làm nhân viên văn phòng, rồi xuống hợp tác xã nông nghiệp.
Nhưng trong rủi có may. Nhờ được về chung sống gần gũi cùng bà con nông dân, cùng chống lũ, chống lụt, tham gia xây dựng hợp tác xã nên ông hiểu sâu sắc mọi công việc nhà nông, công việc của hợp tác xã nông nghiệp. Và cũng nhờ sống ở nông thôn cùng bà con lo cày cấy giúp ông hiểu được từng cảnh ngộ của người nông dân, đặc biệt những người phụ nữ nông thôn với không ít những mảnh đời lam lũ, nghèo khó, rồi những tục lệ lạc hậu nơi xóm làng… cùng những tình cảm chân thành, thảo thơm trong sáng giúp ông có những cảm xúc và vốn sống để có được những trang viết tuyệt vời sau này.
Nguyễn Bản là lớp nhà văn đã sống qua 2 chế độ, được học hành cơ bản nên kiến thức của ông cũng rất cơ bản. Thời đi học ông giỏi cả văn lẫn toán, rồi ông còn được học thuần thục tiếng Anh, tiếng Pháp. Chính các ngôn ngữ nước ngoài ấy không chỉ giúp ông hiểu biết sâu sắc nhiều vấn đề của văn học thế giới mà còn giúp ông trong việc dịch thuật. Ông đã dịch nhiều tiểu thuyết nổi tiếng thế giới sang tiếng Việt như "Đỗ quyên đỏ", "Nữ hoàng phong lan", "Nữ hoàng cuối cùng", "Ba người lính ngự lâm". Ông là bạn văn tâm giao của những nhà văn cùng thế hệ như Nguyễn Xuân Khánh, Lê Bầu, Châu Diên, Dương Tường…
Có một điều đáng nói là, tuy đã là nhà văn từng nổi tiếng nhiều năm nhưng đến nay ông vẫn chưa là hội viên Hội Nhà văn. Hỏi thì ông bảo, nhà văn quan trọng là phải viết, phải có tác phẩm, nhà văn không chỉ lấy đó để khoe khoang. Khi nhà thơ Hữu Thỉnh đến chính thức mời ông vào hội thì ông trả lời, mình không muốn chỉ là một chậu hoa. Nhiều người trọng nể nhân cách của ông.
Nhà văn Nguyễn Bản sống độc thân. Ông lập gia đình sớm nhưng vợ chồng không thuận nên chia tay nhau đã lâu. Ra đi ông chỉ có hai bàn tay trắng còn tất cả để lại cho vợ con. Và từ đấy, suốt mấy chục năm ông sống một mình. Con cái ở gần nhưng ông cũng không nhờ, hết sức tránh làm phiền.
Những ngày đầu sau khi chia tay vợ, ông đến tá túc tại nhà một người bạn nhưng thấy không tiện nên sau khi dành dụm được ít tiền từ viết lách ông mua được một căn nhà trong hẻm bây giờ. Ngôi nhà nhỏ thôi nhưng ông hết sức tự hào mà ông cho đó là những đồng tiền sạch, những đồng tiền do lao động mà có. Ông có áy náy như mình có lỗi, ấy là khi có một bạn văn thân thiết cũng lâm vào hoàn cảnh ông ngày xưa, đến ở nhờ. Nhưng sống được ít hôm thấy chật chội nên bạn xin chuyển đi nơi khác. Ông giữ không được.
Những người cao tuổi sống độc thân thường chỉn chu đến khó tính nhưng nhà văn Nguyễn Bản lại khác. Khó ai biết những năm khi ông đã sắp vào tuổi 90, ông sinh năm 1931, mà nếu không có cái lưng hơi gù làm ông nhỏ hẳn lại, mấy cái mụn đồi mồi mọc trên má báo hiệu tuổi già thì ai cũng nghĩ ông còn trẻ vì ông hay chuyện, khuôn mặt cởi mở luôn tươi cười, đặc biệt đầu óc ông còn rất minh mẫn. Có khách đến chơi, ông vui lan man đủ chuyện. Những chuyện từ những năm 50, 60 của thế kỉ trước ông vẫn nhớ như chuyện mới xảy ra. Với bạn bè ông không chỉ nhớ tên mà cả họ, lại còn cả đệm.
Ngôi nhà của ông nằm khuất trong một con ngõ nhỏ, mà vào giữa ngõ còn phải lần mò thêm mấy ngách nữa. Thậm chí có nhiều người đã đến nhiều lần mà vẫn lạc, phải điện thoại rồi chờ ông ra đón. Gọi là căn phòng cho oai thực ra nơi ở của nhà văn Nguyễn Bản quá nhỏ, chỉ chừng 15m2. Đồ đạc trong nhà cũng hết sức đơn giản, tuy có thêm gác xép nên như vẫn dưới thời bao cấp. Một chiếc giường kiểu cũ, một chiếc bàn viết trên có mấy cuốn từ điển Anh, Pháp.
Ông tự nhận mình lạc hậu vì vẫn không biết dùng máy tính nên vẫn hoàn toàn viết tay. Trong phòng còn có thêm một chiếc bàn nhỏ nằm sát lối cửa ra vào ông dùng làm nơi tiếp khách và chỗ ông ăn uống. Mỗi lần chúng tôi đến thăm ông thường mang thứ quà đơn giản mà ông ưa thích, đó là tút thuốc lá rất nặng và gói cà phê tan Trung Nguyên.
Hôm chúng tôi đến, dù chỉ vừa qua Tết mấy ngày nhưng trong phòng ông không thấy hoa, không kẹo bánh hoa quả. Nhưng những thiếu vắng đó như hoàn toàn không làm ông mấy bận tâm. Nhường hai chúng tôi ngồi 2 ghế gấp còn ông ngồi trên mép giường. Ông lụi hụi đi đun nước rồi tráng bộ ấm chén. Khi pha trà mời khách ông quá mải chuyện nên không nhớ cả công việc chính. Mấy lần cho tay vào hộp trà rồi cứ để nguyên bàn tay trong hộp, quên cả việc lấy trà.
Thấy nhà văn Nguyễn Bản tính nết vui vẻ, hòa đồng lại nhiều năm sống một mình nên đã có bà, có cô muốn đến với ông. Khi được hỏi, liệu bây giờ ông còn mặn mà chuyện đi thêm bước nữa? Riêng chuyện này thì ông có vẻ biết mình biết người: "Giờ già rồi, tính gì thì cũng đã muộn, nên cứ ở một mình cho thoải mái".
Vậy nhưng khi hỏi chuyện tình cảm một thời của ông với một nhà văn nữ cũng rất nổi tiếng thì như ông không giấu được xúc cảm, lặng đi ít phút rồi ông thật thà, nếu ngày đó mà gia đình hai bên không chuyện ra chuyện vào thì hai người đã đến được với nhau. Sau đó thì nhà văn nữ kia đã định cư bên nước ngoài rồi. Câu chuyện tình lãng mạn và thơ mộng đó nghe đâu đã được ông viết ra nhưng không đăng mà ông muốn giữ như một kỷ niệm không thể quên của riêng mình.
Chúng tôi hỏi, bây giờ cao tuổi rồi bác còn làm việc? Ông bảo 90 tuổi rồi còn làm gì nữa. Nhưng chúng tôi biết, khiêm nhường nói vậy thôi chứ ông vẫn còn làm việc, dù chậm hơn, do tuổi tác. Ông vẫn viết, vẫn dịch sách văn học và tài liệu. Việc viết lách của ông bây giờ không phải kiếm tiền mà là thói quen, là niềm vui và cho đầu óc hoạt động.
Cũng nhân câu chuyện, ông kể, hôm trước Tết ra phường lĩnh lương chẳng may bước hụt chân ngã vật trên đất. Ngõ vắng may sao lúc sau có một bà có tuổi đi qua thấy vậy đã cúi xuống dìu ông ngồi dậy, bà ấy cũng yếu nên hì hục mãi mới đỡ được ông, rồi bà còn hỏi ông ở đâu rồi bà đưa ông về.
Hoặc có lần theo con về quê nhưng trên đường đi thì gặp sự cố. Xe hết điện, phải xuống bắt xe tìm mua ắc quy. Lúc sau may có một chiếc xe chạy qua, biết tình hình, chủ xe chở con ông đi tìm mua bình điện. Đi và về phải mấy chục cây số nhưng khi hỏi để trả tiền thì anh gạt đi, nói có đáng bao nhiêu, xe đi tốt là được rồi.
Và ông đã viết những chi tiết này vào các truyện của ông. Ông vẫn viết vì muốn nói rằng, xã hội ta dù còn có những chuyện này chuyện khác chưa vui nhưng vẫn còn rất nhiều điều tốt đẹp lắm. Với ông, đây là những món nợ mà ông phải trả và ông luôn viết về chính những điều ấy. Ông như người mắc "nợ trần gian" và tự nhủ lòng sớm muộn gì cũng nhất định phải trả.