Nhiều giải pháp tháo gỡ rào cản cho phát triển logistics vùng Đông Nam Bộ
Đến nay hoạt động sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp vùng Đông Nam Bộ đã ghi nhận sự phục hồi tích cực. Tuy nhiên, để đáp ứng đúng và đủ nhu cầu của doanh nghiệp, cũng như không chững lại đà tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu đòi hỏi các địa phương trong vùng cần tiếp tục có những đột phá trong phát triển hạ tầng logistics, từ khâu chính sách cho việc đẩy nhanh tiến độ triển khai, hoàn thành các dự án đầu tư hạ tầng giao thông, kho bãi, cảng biển, kho lạnh, kho bảo quản, kho bãi chất lượng cao.
Những khó khăn còn tồn đọng
Về những khó khăn của nhà đầu tư nước ngoài đối với kết cấu hạ tầng logistics TP. Hồ Chí Minh, ông Trần Anh Đức - đồng Trưởng nhóm đầu tư & thương mại của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) cho biết, hiện tại kết cấu hạ tầng logistics TP. Hồ Chí Minh chưa đáp ứng nhu cầu, do giao thông thường bị kẹt ở sân bay, ngõ vào cảng biển, cao tốc.
Dẫn chứng cho thấy, thường xuyên kẹt xe ở đường vào cảng Cát Lái, cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây hoặc thời gian xếp hàng làm thủ tục kéo dài ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất khiến nhà đầu tư rất băn khoăn.
Một trong số những hạn chế khác có thể kể đến như việc TP. Hồ Chí Minh vẫn chưa có trung tâm logistics quy mô lớn, hạ tầng đường bộ xung quanh chưa đạt tiêu chuẩn, điều đó dẫn đến việc hạ tầng logistics của khu vực lân cận thành phố cũng chưa phát triển mạnh. Ví dụ, khu vực phía Nam của tỉnh Bình Dương vẫn còn hạn chế kho bãi mới chất lượng cao.
Sở hữu tiềm năng, lợi thế vượt trội về tự nhiên, vị trí địa lý kinh tế - chính trị chiến lược kết nối các vùng kinh tế khu vực phía Nam và cả nước, nên mặc dù chỉ chiếm hơn 7% tổng diện tích và gần 20% dân số cả nước, nhưng Đông Nam Bộ là vùng kinh tế năng động, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng năm 2023 đạt 220,5 tỷ USD, 6 tháng đầu năm 2024 đạt 115,7 tỷ USD, chiếm 31% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Nhiều doanh nghiệp cũng cho rằng, hạ tầng logistics vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến nay vẫn chưa thể đáp ứng đúng và đủ nhu cầu của các doanh nghiệp. Đặc biệt, tình trạng ùn tắc giao thông trên những tuyến đường vận chuyển huyết mạch vẫn diễn ra triền miên, điển hình là khu vực quanh cảng Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh), quốc lộ 51, quốc lộ 1A, quốc lộ 13, tuyến cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây.
Ngoài ra, dưới góc độ các doanh nghiệp ngành lương thực thực phẩm, hiện tại số lượng các kho lạnh, kho bảo quản vẫn còn hết sức hạn chế, theo đó gây ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng lưu trữ và vận chuyển của doanh nghiệp, nhất là đối với ngành lương thực thực phẩm nói riêng và các ngành khác nói chung.
Điều đó đã làm giảm giá trị sản phẩm, ảnh hưởng đến thời gian vận chuyển và lưu trữ. Trong khi đó, Chính phủ và các địa phương trong vùng vẫn chưa có những cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích và đầu tư cho lĩnh vực này với tính chất là quốc sách chung từ Trung ương cho đến địa phương.
Theo bà Lý Kim Chi - Chủ tịch Hội Lương thực thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (FFA), với việc đầu tư vào những kho lạnh, kho bảo quản, nếu không có chính sách thì doanh nghiệp tự thân vận động sẽ không thể làm được. Mới đây, FFA đã đề xuất với chính quyền TP. Hồ Chí Minh về chính sách làm kho lạnh, đã được tiếp nhận để đưa vào một trong những chương trình phát triển của thành phố.
Tuy nhiên, với thực trạng hiện tại vẫn rất cần các địa phương trong liên kết vùng xem trọng sự cần thiết của hệ thống kho bảo quản, kho lạnh. Bởi nếu không đồng bộ thì việc bảo quản, vận chuyển và giá thành của sản phẩm là những thách thức khó có thể gỡ bỏ đối với ngành.
Do đó, bà Chi cho rằng, “Vùng Đông Nam Bộ cần có cơ chế chính sách để hỗ trợ chung cho doanh nghiệp về mảng đầu tư kho lạnh, kho bảo quản”.
Triển khai nhiều giải pháp đẩy nhanh tiến độ các dự án
Trước thực trạng kẹt xe ở quốc lộ 1A ở cửa ngõ Tây Nam TP. Hồ Chí Minh, thời gian qua, TP. Hồ Chí Minh đã thông qua chủ trương mở rộng đoạn quốc lộ 1A (đoạn qua huyện Bình Chánh) sẽ được mở rộng lên 52m cho 8 làn xe, vốn đầu tư gần 12.900 tỷ đồng theo hình thức BOT.
Đồng thời, 2 tháng gần đây, Sở Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh cũng đã phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu tư vấn, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi để chuẩn bị triển khai dự án vào cuối năm 2025 và dự kiến hoàn thành vào năm 2028.
Bên cạnh việc đầu tư mở rộng hạ tầng giao thông để giải quyết vấn đề kẹt xe nhằm rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa cho các doanh nghiệp, PGS.TS Vũ Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu giao thông vận tải Việt Đức (Trường Đại học Việt Đức), cho biết: “Vấn đề quan trọng nhất hiện nay của TP. Hồ Chí Minh là cần tăng cường nhận thức tại các cơ quan ra quyết định đầu tư giao thông của thành phố này. Điều đó sẽ giúp cho quá trình quản lý kế hoạch phân bổ vốn đầu tư hàng năm cho lĩnh vực giao thông sẽ thay đổi”.
Ngày 18/9, Bộ Chính trị cũng đã cho ý kiến về Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, trong đó nhấn mạnh đến tăng cường kết nối vùng, miền, bảo đảm nhu cầu vận tải trên hành lang Bắc - Nam.
Theo các chuyên gia, việc thực hiện mạng lưới đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ giúp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hẹp rào cản kết nối hàng hóa với các tỉnh miền Trung và miền Bắc. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp trong vùng.
Về việc phát triển cảng biển ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, theo dự kiến công suất tại khu phức hợp cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải (cách TP. Hồ Chí Minh 60 km), bao gồm các bến do Gemadept, Công ty cổ phần Cảng Sài Gòn và các công ty logistics khác sở hữu và vận hành, dự kiến sẽ tăng hơn 10% vào năm 2025, trong đó Gemadept sẽ tăng gấp đôi số bến mà họ vận hành tại Cái Mép - Thị Vải.
Ngoài ra, một tin vui khác là việc Chính phủ hiện đang xem xét xây dựng một cảng trung chuyển chuyên dụng tại Cần Giờ.
Theo ông Michael Kokalari - Giám đốc Phòng Phân tích kinh tế vĩ mô và nghiên cứu thị trường thuộc VinaCapital, việc giải quyết các khó khăn tồn đọng trong câu chuyện logistics sẽ giúp Việt Nam cạnh tranh với Singapore và Hồng Kông về kinh doanh trung chuyển, nguyên nhân do phí xử lý cảng của Việt Nam vẫn thấp hơn khoảng một nửa so với Singapore ngay cả khi tăng 10%.
Ngoài ra, việc xây dựng sân bay quốc tế Long Thành với một nhà ga hàng hóa dự kiến khởi công vào cuối năm nay cũng là một lợi thế và tất cả đều nằm trong các kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng của Chính phủ.