Nhà khoa học dành trọn cuộc đời tận hiến cho những vụ mùa bội thu
Hơn nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy, từ những ngày đầu học tập ở Liên Xô đến khi trở thành 'cây đại thụ' trong ngành nông nghiệp Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Viện sĩ Trần Đình Long - Chủ tịch Hiệp hội giống cây trồng Việt Nam, Hội viên danh dự Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Hà Nội, Ủy viên Hội đồng Quỹ Hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam (AFV) đã góp phần quan trọng đưa nhiều giống cây trồng mới đến với bà con. Những giống cây trồng này giúp người nông dân nâng cao năng suất, cải thiện đời sống và khẳng định thương hiệu nông sản Việt.
Tiến sĩ khoa học – viện sĩ Trần Đình Long:

Ở tuổi 85, vị "Viện sĩ của nhà nông" vẫn miệt mài như người nông dân cần mẫn trên cánh đồng khoa học để gieo trồng tri thức, thu hoạch niềm tin. Ông được thành phố Hà Nội lựa chọn để vinh danh Công dân Thủ đô ưu tú năm 2025 cũng bởi từ chính những đóng góp cho nông nghiệp cả nước nói chung và nền nông nghiệp Hà Nội nói riêng. Cả một đời gắn bó với nông nghiệp, nông dân, điều ông tâm huyết nhất vẫn là làm sao để tri thức khoa học không nằm trong phòng thí nghiệm, mà phải bén rễ từ mảnh ruộng, nương đồi, vườn cây của nông dân.

Trong buổi trò chuyện với phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Viện sĩ Trần Đình Long đã chia sẻ những trải nghiệm, những tâm huyết cả đời dành cho khoa học nông nghiệp cùng khát vọng đồng hành với người nông dân Việt Nam trên hành trình hướng tới một nền nông nghiệp bền vững, an toàn, hiện đại

PV: Tới nông thôn các tỉnh, thành trong cả nước, đi tới đâu khi nhắc tới Tiến sỹ khoa học Trần Đình Long, Hiệp hội Giống cây trồng Việt Nam, mọi người đều gọi ông bằng tên gọi trìu mến "Viện sĩ của nông dân", "Ông vua cỏ ngọt", xin Giáo sư chia sẻ thêm những câu chuyện xung quanh các biệt danh này?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Trong suốt quá trình công tác, tôi và các đồng nghiệp đã lai tạo thành công 27 giống cây trồng mới, trong đó có 9 giống đậu tương, 6 giống lạc, 4 giống đậu xanh, giống lúa VX83, giống Đại mạch Api, 2 giống Hướng dương, giống Vừng V6, giống khoai lang VX37, giống cỏ ngọt ST88, ST77… Các giống này hiện đang được phát triển trong sản xuất trên hầu hết các vùng sinh thái của nước ta, giúp tăng thu nhập cho nông dân từ 15 - 20% so với giống cũ, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.

Đặc biệt, đối với cây cỏ ngọt - một loại cây quý hiếm mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mang về từ châu Mỹ giao cho Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường hiện nay) để lại nhiều kỷ niệm sâu sắc. Năm 1988, khi nhận nhiệm vụ này, Bộ đã giao cho Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam (nay là Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) và tôi là người đứng ra chủ trì đề tài.
Trải qua 7 năm với bao khó khăn khi đưa loại cây mới về Việt Nam, đến năm 1995 khi mang trồng ở Đà Lạt cây đã ra hoa, chúng tôi đã phân lập ra giống cỏ ngọt của Việt Nam với tên gọi ST88 và được thế giới công nhận. Đến năm 2019, chúng tôi tiếp tục phânlập được ra được giống nữa là ST77 và giờ là ST104.
Loại cây này được gọi là "cây trồng của thế kỷ 21" vì sản xuất ra một loại đường không năng lượng, đường tự nhiên, thân thiện có thể dùng được cho người tiểu đường, chống béo phì, giảm cholesterol trong máu... Mặc dù hàm lượng đường cao gấp 300 lần so với đường mía nhưng lại có tác dụng là không năng lượng.
Nghiên cứu thành công loại cây quý hiếm này, để đưa vào trồng thực địa, chúng tôi đã tập huấn cho bà con phương thức canh tác, cách chăm sóc phù hợp đặc tính của cây. Sau đó, cung cấp giống cây miễn phí để bà con trồng thử nghiệm. Hiện, loại cây này đang được bà con nông dân ở các vùng như Hưng Yên, Nam Định (cũ), Ninh Bình (cũ), Hòa Bình (cũ), Hà Giang (cũ), Hà Nội trồng và mang lại thu nhập rất cao, gấp 6 lần so với lúa trồng (giá bán lá khô từ khoảng 60 - 100.000 đồng/kg).
Nhiều nông dân nhờ trồng cỏ ngọt mà đã xây được nhà cao, rộng rãi, nâng cao đời sống, cải thiện kinh tế. Vì vậy, khi tôi đến thực tế các vùng, bà con nông dân nhận ra ngay và reo lên "Ông vua cỏ ngọt đây rồi". Đó cũng là niềm vui của nhà khoa học khi nghiên cứu ra giống cây, mang lại lợi ích thiết thực và được bà con nông dân tin dùng.

PV: Như Giáo sư chia sẻ, trong suốt hành trình cống hiến, có rất nhiều loại giống được ông và đồng nghiệp lai tạo thành công, ngoài cây cỏ ngọt để lại dấu ấn cá nhân đậm nét thì có loại cây nào khiến Giáo sư đặc biệt tâm đắc?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Xin trở lại câu chuyện về những ngày đầu tôi được cử sang Liên Xô học tập (từ năm 1962 - 1967), với xuất thân từ gia đình nông dân nghèo, thấu hiểu được những vất vả của bà con trên đồng ruộng nên trước khi lên đường du học tôi ấp ủ dự định là học tập, nghiên cứu để đem lại điều gì có ích cho đất nước, cho người nông dân. Vì thế, khi sang tới Liên Xô điều đầu tiên là tôi nghiên cứu những đối tượng cây trồng nhiệt đới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Việt Nam, và tôi đã chọn cây lạc.
Khi tốt nghiệp trở về nước, với những kiến thức đã học được tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Kishinev (Liên Xô), tôi tham gia giảng dạy tại Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam) và tham gia nghiên cứu về cây đậu đỗ, trong đó có đậu tương, đậu xanh... Trong đó tôi tâm đắc nhất là đã lai tạo thành công các giốngđậu tương ĐT12, M103 được lai tạo bằng phương pháp đột biến. Đây là giống cực ngắn, chỉ trồng trong 75 ngày xen giữa 2 vụ lúa Xuân - Hè; giống thứ hai là ĐT26 - đậu tương vụĐông, trồng trong thời gian chỉ trong 90 ngày. Giống đậu tương ĐT26 đã được cấp bằng bảo hộ quyền tác giả - một dấu ấn tự hào cho khoa học nông nghiệp nước nhà. ĐT26 được trồng phổ biến ở đồng bằng sông Hồng và Trung du Miền núi phía Bắc và nhiều địa phương của Hà Nội.

Để có được thành tựu này, tôi lại nhớ về thời kỳ làm thực tập sinh cao cấp từ năm 1981 - 1983 lại Liên Xô. Lúc đó tôi làm đề tài về siêu cấu trúc hiển vi với đậu tương, điều kiện để được bảo vệ đề tài là phải vào được phòng thí nghiệm - mà muốn đăng ký vào phòng thí nghiệm phải đăng ký, xếp hàng tới 3 năm. Nhưng rất may mắn cho tôi, thầy hướng dẫn là Viện sĩ thông tấn đã dùng uy tín của mình để xin cho tôi được vào phòng thí nghiệm ở Xanh-Peterburg.
Qua được bước đầu, thử thách tiếp theo là yêu cầu mẫu vật đậu tương phải được phủ bằng vàng. Lúc đó tôi rất nghèo, cuộc sống khó khăn, với mức trợ cấp 90 Rúp Nga/tháng thì không có tiền để mua vàng, nguy cơ công trình không thể hoàn thành...
Thế rồi sự may mắn lại đến với tôi khi vợ của thầy hướng dẫn vốn rất quý sinh viên, nghiên cứu sinh người Việt như người thân - trong đó có tôi. Cô đã cho tôi vàng để phủ lên mẫu vật, đủ điều kiện bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học, sự giúp đỡ đó là bước ngoặt có tính quyết định đối với cuộc đời tôi. Công lao ấy, ân nghĩa sâu nặng ấy tôi không bao giờ quên được và giờ nghĩ lại vẫn cảm thấy vô cùng xúc động.

Đối với cây đậu tương, trên thế giới gọi đây là "vàng mọc trên đất" vì tất cả các bộ phận của nó đều sử dụng được và còn giúp cải tạo đất. Từ đậu tượng có thể làm ra trên 100 loại sản phẩm khác nhau, trong đó có những loại phục vụ cho sức khỏe con người. Đâycũng là loại cây có năng suất cao, nhưng thời gian canh tác lại kéo dài khoảng 5 - 6 tháng. Chính vì vậy, khi Việt Nam lai tạo được những giống đậu tương ngắn ngày có hàm lượng protein cao đã gây ấn tượng mạnh, được thế giới đánh giá cao.
Để nghiên cứu giống đậu tương phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng, tập quán canh tác tại Việt Nam, chúng tôi đã chọn con đường khác biệt là sử dụng phương pháp đột biến (sử dụng tia gama hoặc là các tác nhân gây đột biến) thay cho phương pháp lai tạo chọn lọc. Thông thường, với phương pháp lai hữu tính thì một giống đậu tương phải mất 10 - 15 năm mới lai tạo thành công, trong khi chúng tôi rút ngắn thời gian chọn tạo còn 4- 5 năm. Phương pháp này không chỉ rút ngắn thời gian canh tác mà còn tăng năng suất, hàm lượng protein trong đậu tương Việt Nam.
Loại đậu tương này, hiện trồng ở đồng bằng sông Hồng với diện tích khoảng 30.000 ha cho thu hoạch từ 2 - 3 tấn/ha. Với sản lượng này, nếu làm sữa đậu nành thì chúng ta sẽ là cường quốc về xuất sữa đậu nành trên thế giới.

PV: Có thể nhận thấy, những sản phẩm nghiên cứu khoa học của Giáo sư đều có tính ứng dụng cao trong cuộc sống, mang lại giá trị thiết thực và được người nông dân đón nhận, tin yêu. Những tình cảm mộc mạc, sự yêu mến của người nông dân có phải là động lực chính thôi thúc Giáo sư tận hiến để tạo ra những hạt giống quý thuần Việt cho bà con nông dân?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Tôi có một tình cảm rất sâu nặng với nông dân. Suốt mấy chục năm công tác, tôi đã đi hết hầu như tất cả các tỉnh, thành, gặp nhiều nông dân thì thấy một điều là nông dân Việt Nam có đặc tính chung rất là cần cù, chăm chỉ. Mặc dù hoàn cảnh khó khăn nhưng họ vẫn nỗ lực vươn lên. Kể cả Hà Nội nhưng người nông dân vẫn là khổ nhất, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa như là vùng chân núi Ba Vì hoặc khu vực Sóc Sơn.
Những năm qua, tôi đã tham gia giới thiệu giống, mở hàng trăm lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân Hà Nội về giống, cách trồng đậu tương, nhãn chín muộn hay dâu Đài Loan, lúa chất lượng cao... khi đưa vào trồng đã cho thấy hiệu quả rất tốt, được bà con rất nhớ. Có những lần tôi đến các vùng trồng đậu tương mọi người bảo nhau "ông đậu tương đến kìa". Hay như ở Nam Định (cũ), khi tôi đến thấy bà con nông dân trồng cây cỏ ngọt rất phấn khởi vì cây cho thu nhập cao và ổn định. Thậm chí, có người còn bảo, nếu già chết đi thì con cái sẽ tiếp tục trồng cỏ ngọt.
Niềm vui lớn nhất của nhà khoa học là khi mình đến được bà con chào đón bởi, những giống cây trồng của mình được đưa vào canh tác mang lại giá trị kinh tế cao, mang lại lợi ích thực sự cho người nông dân.

Nhà khoa học không phải là giải A giải B hoặc cái gì mà quan trọng nhất là kết quả nghiên cứu được thực tế chấp nhận, thừa nhận hay không, đó mới là "phần thưởng" giá trị nhất. Mặc dù đã nghỉ hưu nhưng đến nay tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu tạo ra giống cây mới để phục vụ bà con, đó là điều tôi cảm thấy hạnh phúc nhất.
Tuy vậy, điều tôi luôn cảm thấy trăn trở là làm sao để người nông dân có thu nhập cao và sống tốt. Muốn như vậy, các chính sách phải đặc biệt chú ý đến người nông dân.
PV: Được biết, sự tận hiến của Giáo sư không chỉ nằm ở phạm vi nghiên cứu giống cây trồng mà thời gian qua, ông cũng tham gia hoạt động vào dự án an sinh xã hội với vai trò Ủy viên Hội đồng Quỹ Hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam (AFV), xin Giáo sư chia sẻ đôi chút về cơ duyên gắn bó với hoạt động này?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Thực ra khi nghỉ hưu rồi tôi vẫn tham gia hoạt động xã hội là chính, trong đó có cố vấn cho doanh nghiệp và chương trình an sinh xã hội. Nhận thấy Chương trình an sinh xã hội ActionAid Quốc tế đã hoạt động hơn 30 năm mà chưa có Quỹ tài trợ cho dự án an sinh xã hội Việt Nam (AFV), trong đó có người yếu thế (trẻ em, người tàn tật, đồng bào vùng sâu vùng xa hay những vấn đề về biến đổi khí hậu). Xuất phát từ đó, tôi muốn tham gia để mang kiến thức của mình cống hiến chocộng đồng ở lĩnh vực hỗ trợ sinh kế trong mảng nông nghiệp.
Với quan điểm hỗ trợ người dân bằng cách "cho cái cần" chứ không cho "con cá", chúng tôi hỗ trợ sinh kế bằng cách đi khắp các vùng, miền của đất nước để nghiên cứu việc trồng cây gì, làm như thế nào cho phù hợp. Các hoạt động này đã mang lại lợi ích thiết thực cho bà con, giúp xóa đói, giảm nghèo.
Qua 9 năm hoạt động, khi tổng kết Quỹ hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam có rất nhiều thành tựu. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (VUFO) cũng đánh giá rất cao hoạt động của Quỹ An sinh xã hội Việt Nam, bởi lĩnh vực hoạt động rất rộng, hầu như các tỉnh thành trên toàn quốc, ở các vùng miền, đối tượng khác nhau từ nông thôn đến thành thị. Trong những thành tựu đó, đó đóng góp về sinh kế nông nghiệp là đáng nhớ nhất.

PV: Gắn bó với các hoạt động thiện nguyện cùng Quỹ hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam đã gần 10 năm, vậy đâu là điều cốt yếu khiến Giáo sư cảm thấy gắn bó và có động lực để tiếp tục cống hiến?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Điều khiến tôi có ấn tượng mạnh mẽ nhất là người đứng đầu của ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (Văn phòng đại diện) rất thông minh, năng động, có tâm, có tầm. Nhờ sự năng động đó đã kêu gọi ActionAid Quốc tế và các đối tác khác tài trợ để Actionaid Việt Nam hoạt động trong suốt thời gian qua, góp phần giảm bớt khó khăn cho cộng đồng người Việt Nam.
ActionAid Quốc tế tại Việt Nam không phải là một quỹ từ thiện bình thường mà mang tính chất cộng đồng, quan tâm đến lợi ích, nâng cao dân trí cho người yếu thế như người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển của ActioAid Quốc tế cũng như tại Việt Nam là gắn sinh kế với thích ứng biến đổi khí hậu. Đây là một tư duy,một cách đi rất thông minh. Nông nghiệp thì phải phát triển theo hướng nông nghiệp có trách nhiệm, an toàn. Chính từ quan điểm, cách tư duy đó nên tôi cảm thấy muốn gắn bó, đóng góp trí tuệ của mình lâu dài hơn nữa.
Lúc đầu thì tôi nghĩ rằng đây chỉ là quỹ từ thiện thôi. Nếu là quỹ từ thiện mình thiếu gì cách, có thể trực tiếp đưa cho người nghèo nên cũng tham gia mà chưa nhiệt tình. Thế nhưng, qua thời gian tham gia tôi thấy Quỹ AFV có phương thức hoạt động rất rộng, hướng tới sự phát triển lâu dài, bền vững bằng việc đào tạo, làm để cho cộng đồng tự đứng lên. Nhận thấy chương trình hoạt động ý nghĩa, mang lại hiệu quả thiết thực nên tôi cảm thấy thoải mái và sẽ tiếp tục gắn bó lâu dài để đồng hành hỗ trợ, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân.

PV: Có thể nhận thấy một điều là các giống cây trồng được lai tạo mang lại nang suất rất cao so với giống cũ, nhưng thực tế lại chưa được phát huy tối đa những giá trị kinh tế, xã hội theo Giáo sư thì đâu là cản trở lớn nhất?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Đúng là các loại cây giống này đều chưa được khai thác tối đa, chưa phát triển được thành chuỗi. Tôi lấy thí dụ thế này, với cây cỏ ngọt, hiện người nông dân mới bán ở mức 60 - 100.000 đồng/kg lá khô, khoảng 200.000 đồng/kg khi bán ở cửa hàng thuốc Nam. Nhưng nếu có nhà máy với dây chuyền chế biến thành đường tinh thể xuất sang EU, Mỹ thì thu nhập có thể lên tới mấy tỷ đồngtrên/ha.
Hay như hạt đậu tương, hiện người nông dân bán được 30.000 đồng/kg, với năng suất 2 tấn/ha thì chỉ thu được 60 triệu đồng/ha. Nếu chế biến thành sữa đậu nành thì giá trị thu được là 400 triệu đồng/ha; còn nếu chế biến được hoạt chất Isoflavone (chất chống lão hóa), phụ nữ sẽ trẻ mãi với tuổi 30, sẽ thu được 2 tỷ đồng/ha.
Nếu chúng ta biết kết hợp nông nghiệp truyền thống với nông nghiệp giá trị cao thì người nông dân sẽ giàu chứ không phải là nghèo. Nhược điểm của nông nghiệp Việt Nam chính là vấn đề không chế biến. Việt Nam rất tự hào bởi đã xuất trên 60 tỷ đô la nông sản, năm 2024, nhưng vẫn là xuất thô, là nông nghiệp cơ bắp. Bài toán là phải sản xuất theo chuỗi giá trị để xây dựng thương hiệu quốc gia và quốc tế. Vấn đề mấu chốt để nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện nay chính là chế biến, chế biến và chế biến. Nếu chế biến được thành phẩm sẽ tăng giá trị kinh tế của nông sản lên rất nhiều lần. Nếu sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị thì Việt Nam không phải chỉ có hai con số về kim ngạch xuất khẩu nông sản mà còn có nhiều tiềm năng để nâng lên 3 con số, đạt hàng trăm tỷ USD/năm. Và như thế Việt Nam sẽ có một vị thế mới trên thị trường quốc tế.

PV: Từ câu chuyện của đậu tương, cỏ ngọt chúng ta cũng có cái nhìn chung cho nền nông nghiệp Việt Nam, theo Giáo sư cần có những giải pháp gì để tạo sự phát triển bền vững cho nông nghiệp nước nhà?
Giáo sư - Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long: Tôi nghĩ rằng, để nông nghiệp Việt Nam có vị thế trên quốc tế cần 3 giải pháp cơ bản, đồng bộ. Thứ nhất là cả hệ thống chính trị vào cuộc bởi nông nghiệp không phải chỉ có kinh tế nông nghiệp mà còn là phát triển nông thôn với nhiều lĩnh vực, sản xuất theo chuỗi giá trị. Nói đơn giản là chỉ cần làm tốt Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Đặc biệt, Nghị quyết 57-NQ/TW coi khoa học công nghệ là động lực. Điều đó có nghĩa phải tạo được đội ngũ nông dân công nghiệp, nông dân hiện đại. Cùng với đó là phải đào tạo đội ngũ trẻ để nắm bắt công nghệ.
Thứ hai là quản trị nông nghiệp tốt. Việt Nam mới làm kỹ thuật nông nghiệp thôi, còn quản trị nông nghiệp - tức là sản xuất cây trồng hoặc vật nuôi thì phải có sự liên kết doanh nghiệp, nhà khoa học, người nông dân.
Thứ ba là phải phát triển một nền nông nghiệp không phải chỉ vì lợi ích kinh tế, mà phải bảo vệ môi trường, từ nước, phân bón hữu cơ hay thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, thân thiện với môi trường. Muốn làm được những điều này thì phải có công nghệ phù hợp để vừa tăng năng suất, chất lượng nhưng đồng thời đảm bảo thân thiện với môi trường.
PV: Xin cảm ơn Giáo sư về những chia sẻ đầy tâm huyết.
