Nhà báo trên chiến trường đánh Mỹ

Tháng 10/1969, tôi cùng gần 400 đồng nghiệp dự khóa đào tạo Đại học Báo chí-Xuất bản đầu tiên (tiền thân của Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày nay). Những ngày đầu còn bỡ ngỡ, nhưng rồi càng học càng thấy hay; những bài giảng, mỗi môn học lại mở ra những kiến thức, những hiểu biết về xã hội học và nhân văn, càng ngày càng sáng tỏ, thế nào là 'nghề báo' và 'nhà báo'.

Nhà báo Nguyễn Đắc Sinh nơi chiến trường Tây Nguyên những năm kháng chiến chống Mỹ.

Nhà báo Nguyễn Đắc Sinh nơi chiến trường Tây Nguyên những năm kháng chiến chống Mỹ.

Thời gian thấm thoát trôi đi, chúng tôi lứa sinh viên báo chí khóa I miệt mài học tập, rèn luyện phong cách chuẩn bị hành trang cho một sự nghiệp...

Tháng 2/1972, tôi cùng 53 sinh viên báo chí khóa I được điều động vào quân đội, để chuẩn bị “tung” ra chiến trường làm phóng viên tiền phương...

Để đào tạo đội ngũ phóng viên chiến trường, ngoài việc học tập và rèn luyện, chúng tôi còn được đi thực tế dài ngày ở những đơn vị chiến đấu để rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp. Đặc biệt là chuyến đi thực tế ở chiến trường Quảng Trị tháng 5/1972 đến tháng 10/1972 là một thử thách lớn đối với phóng viên chiến sĩ trẻ chúng tôi. Tôi được phân công là tốp trưởng ba người gồm Nguyễn Xuân Trường quê Thanh Hóa, Nguyễn Văn Tuân quê Thái Bình và tôi trong đội hình chiến đấu của “Đại đoàn quân Tiên phong”, phiên hiệu Sư đoàn 308 hành quân vai nặng, trèo đèo, lội suối, vượt đỉnh Trường Sơn thuộc phía Tây Quảng Trị... Mỹ Ngụy tập trung mọi lực lượng tinh nhuệ, các loại vũ khí hiện đại nhất kể cả vũ khí hóa học tổ chức phản công để hòng chiếm lại địa bàn chiến lược Quảng Trị. Hàng vạn tấn bom, đạn của kẻ địch đã trút xuống mảnh đất này, hàng nghìn ha rừng bị chất độc hóa học làm trụi lá... hòng ngăn chặn bước tiến của bộ đội ta. Gần 3 tháng luồn rừng, lội suối, ngủ hầm, ăn cơm nắm, lương khô, uống nước suối, vừa hành quân vừa chuẩn bị lực lượng rèn ý chí quyết tâm sẵn sàng chiến đấu.

Sau 5 tháng thực tập ở chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, cuối tháng 10 chúng tôi hành quân ra Bắc về với mái trường thân yêu. 54 chiến sĩ nhà báo lúc ra đi, chỉ còn 53 người trở về. Nhà báo chiến sĩ Phạm Quang Dụ quê ở Thanh Hóa đã vĩnh viễn nằm lại mảnh đất Quảng Trị anh hùng. Anh Khởi - Trung úy, Trung đội trưởng, cán bộ khung đưa đoàn đi thực tập đã hy sinh tại đất Vĩnh Linh trong một trận oanh tạc của máy bay Mỹ... Lớp phóng viên trẻ chúng tôi ngậm ngùi, xúc động vĩnh biệt các anh trong niềm thương tiếc khôn nguôi...

Trong những ngày giặc Mỹ leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc; đặc biệt là “12 ngày đêm Hà Nội” cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của Mỹ vào thủ đô- trái tim của cả nước, tôi và các nhà báo trẻ được tham gia trận đánh lịch sử này. Cùng ăn, cùng ở, cùng trực chiến ở khắp các trận địa: Tên lửa cao xạ pháo và các đơn vị tự vệ của Thủ đô. 12 ngày đêm chúng tôi thức cùng Thủ đô Hà Nội, cùng cả nước hướng về Hà Nội, cùng chiến đấu, phục vụ chiến đấu thật ý nghĩa đối với những chiến sĩ trẻ cầm bút.

Tháng 10/1973, tôi cùng 52 chiến sĩ “Đại đội phóng viên tiền phương” được phong quân hàm sĩ quan. Đây là một sự kiện ý nghĩa, cột chặt sự nghiệp và cuộc đời tôi với nghiệp “nhà báo chiến sĩ”.

Đầu tháng 11/1973, Tổng Cục Chính trị điều động tôi và các đồng nghiệp vào các chiến trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu với tư cách phóng viên tiền phương.

Tôi cùng 4 đồng nghiệp (Tuấn, Công, Thanh, Dung) do tôi làm tổ trưởng hành quân vào chiến trường Tây Nguyên, đường hành quân dài hiểm trở, dốc núi cheo leo, chúng tôi phải đi bằng nhiều phương tiện khác nhau, sau hơn 1 tháng hành quân từ đầu tháng 11/1973 đến 21/12/1973 chúng tôi đến Trạm 70 (T70) nơi đón tiếp cán bộ chiến sĩ miền Bắc bổ sung cho chiến trường Tây Nguyên, thuộc khu vực ngã 3 biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia.

Ngày 22/12/1973 Trạm 70 của mặt trận đã đón tiếp tổ 5 người chúng tôi; tổ chức bữa cơm đạm bạc mừng 29 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, món đặc sản là măng le nấu với thịt hộp thật đơn sơ, giản dị, nhưng chúng tôi cảm thấy ấm lòng vì những tình cảm của anh em đồng đội dành cho đoàn.

Nghỉ lại 1 ngày, 1 đêm tại trạm; ngày 23/12 chúng tôi được giao liên của trạm dẫn đường đi bộ chừng 5 – 6 km, đến khu vực biên giới, nơi đây có con suối Cà Đin (một nhánh của sông Sa Thầy), nước trong mát. Chính nơi này, Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng Tây Nguyên lập căn cứ chỉ huy và điều hành cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân Tây Nguyên.

5 anh em chúng tôi - những nhà báo chiến sĩ ở 5 miền quê khác nhau: Nguyễn Mạnh Tuấn quê Thái Nguyên, Nguyễn Văn Công quê Yên Bái, Lê Bá Thanh quê Thanh Hóa, Trần Kim Dung quê Thái Bình, tôi quê Phú Thọ vào chiến trường Tây Nguyên có chung một nhiệm vụ đó là làm phóng viên chiến trường, nhà báo chiến sĩ, Báo Quân giải phóng Tây Nguyên. Nhận nhiệm vụ mới tại Báo Quân giải phóng Tây Nguyên và Thông tấn xã tại Tây Nguyên. Tuy là 2 cơ quan báo chí nhưng thực chất chỉ là một ....

Thời điểm này, cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta đã chuyển sang giai đoạn quyết liệt. Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng Tây Nguyên quyết định thành lập tờ báo “Quân Giải phóng Tây Nguyên” - Cơ quan ngôn luận của Mặt trận, tiếng nói của LLVT Quân Giải phóng Tây Nguyên... Các anh lớp người đi trước đã đặt nền móng để xuất bản và phát hành tờ báo. Chúng tôi lớp người kế tiếp tăng cường cho mặt trận tư tưởng, văn hóa báo chí.

Những ngày đầu đến Tây Nguyên, chúng tôi đã thực hành bài học: Hành quân xuyên rừng gùi sắn, ngô trên vai. Ngày đầu chưa quen đổ mồ hôi mệt mỏi... Làm mãi rồi cũng quen dần với nếp sống và hòa vào guồng máy chung của nhịp sống chiến trường...

Nhanh chóng làm quen với hoạt động báo chí ở chiến trường, chúng tôi được các anh lãnh đạo Báo Quân Giải phóng Tây Nguyên phân công mỗi người một hướng, bám sát các đơn vị chiến đấu của Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, các Trung đoàn pháo binh, thiết giáp, phòng không chuẩn bị cho những trận đánh có ý nghĩa quan trọng...

Ngày 14/2/1974, Quân ủy Trung ương chỉ đạo Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng Tây Nguyên tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 và dự kiến những tình huống có thể xảy ra: “Cách mạng miền Nam có thể trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được bằng con đường bạo lực cách mạng”. Bất kể tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, nắm vững đường lối chiến lược tiến công.

Thực hiện chủ trương vừa đánh địch lấn chiếm, vừa bảo vệ đường 220, Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng Tây Nguyên lệnh cho Sư đoàn 10 tổ chức truy quét địch khu vực Con Rẫy.

Tôi và Nguyễn Văn Công - phóng viên Báo Quân giải phóng Tây Nguyên được giao nhiệm vụ tác nghiệp với tư cách nhà báo chiến sĩ. Hai chúng tôi đã nhận nhiệm vụ quan trọng này vừa mừng, vừa lo: Mừng vì lần đầu tiên vào chiến trường Tây Nguyên được tham gia một chiến dịch lớn có ý nghĩa, được cùng các chiến sĩ Sư đoàn vào trận đánh với tinh thần quyết tâm cao. Với tư thế của một Sư đoàn Bộ binh chủ lực của mặt trận, thực hiện nhiệm vụ quan trọng là truy quét địch, giành dân, giữ vững vùng giải phóng. Đây là dịp để các nhà báo chiến sĩ trẻ thể hiện ý chí, lòng trung thành và trải nghiệm của mình trong thực tế chiến đấu...

Ngày 16 và 17/3/1974, tôi cùng cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 28, Sư đoàn 10 ra trận. Với một ba lô đầy đủ quân tư trang, lương khô, nước uống; một khẩu súng K53, một máy ảnh KyEP, một đài bán dẫn, sổ ghi chép... hành quân luồn rừng, lội suối đến vị trí tập kết. Là phóng viên mặt trận nên tôi được chỉ huy Trung đoàn quan tâm, luôn được bám sát đội hình cùng ban chính trị Trung đoàn thực hiện nhiệm vụ. Với cách đánh chủ động, bí mật, bất ngờ, bao vây chặt, đột phá dũng mãnh, Trung đoàn 28 đã tiêu diệt mục tiêu chủ yếu là Sở Chỉ huy tiểu đoàn, sau đó tiếp tục công kích các mục tiêu quan trọng khác. Tiểu đoàn 95 và 2 đại đội tăng cường của địch bị diệt gọn, trong số 250 tên địch bị bắt có 2 tên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn phó...

Ngày 24/4/1974 Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 tiếp tục nhổ chốt một căn cứ Con Rẫy, vùng giải phóng của ta được giữ vững, mở rộng.

Nhà báo Nguyễn Đắc Sinh năm 1976.

Nhà báo Nguyễn Đắc Sinh năm 1976.

Gần 2 tháng tham gia Chiến dịch truy quét địch bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, giữ vững an toàn các tuyến đường huyết mạch đánh nhanh diệt gọn các cứ điểm trọng yếu của địch, Trung đoàn 28, Trung đoàn 24 Sư đoàn 10 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tôi và các đồng nghiệp kịp thời đưa tin chiến thắng, viết bài, chụp ảnh các trận đánh, đăng tải kịp thời trên Báo Quân Giải phóng Tây Nguyên; qua làn sóng điện đài 15W của Thông tấn xã mặt trận, tuyên truyền chính xác, kịp thời đến đồng bào, chiến sĩ cả nước những chiến thắng của quân dân Tây Nguyên, khích lệ, động viên kịp thời cuộc chiến đấu của quân và dân ta bước sang giai đoạn mới đầy khí thế tấn công...

Hoàn thành nhiệm vụ “đi chiến dịch” do Ban Biên tập phân công, tôi và các đồng nghiệp trở về căn cứ nơi con sông Cà Đin, một nhánh của dòng sông Sa Thầy chảy vào đất Việt; nơi tôi cùng các đồng nghiệp và Bộ Tư lệnh mặt trận bám theo dòng suối mát lành này để sinh hoạt và làm việc trong những năm tháng đầy gian khó...

Những kỷ niệm sâu sắc trong tâm khảm, trong ký ức của người làm báo chiến sĩ trẻ là mạch nguồn vô tận đối với tôi. Trong mỗi chuyến đi thực tiễn tại chiến trường, những trận đánh khốc kiệt giữa ta và địch... , trực tiếp chứng kiến nhiều cán bộ, chiến sĩ quân giải phóng đã hi sinh anh dũng, để lại trong tôi niềm thương tiếc vô hạn...

Chiến tranh đã qua đi 50 năm, đất nước độc lập, tự do, thống nhất; non sông thu về một mối. Trọn một đời theo nghề báo, trải qua những năm tháng khốc liệt nơi chiến trường, chứng kiến đất nước phát triển phồn vinh, dân tộc vươn mình bước vào kỷ nguyên mới, ngành báo chí ngày càng lớn mạnh xứng đáng là “chiến sĩ anh dũng” trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc, tôi càng thêm vui, tự hào với những phút giây gian lao, hiểm nguy mà hào hùng của mình cùng những đồng đội nhà báo chiến sĩ trên chiến trường đánh Mỹ năm xưa.

Nhà báo Nguyễn Đắc Sinh

Nguồn Phú Thọ: https://baophutho.vn/nha-bao-tren-chien-truong-danh-my-234788.htm
Zalo