Phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ - mồ hôi, nước mắt và nụ cười - Bài cuối: Máu và hoa
Ngày đất nước thống nhất, có nhà báo mãi mãi không trở về vì thân xác nằm lại đâu đó dưới lòng đất mẹ U Minh. Những người trở về với những vết thương đã lành theo năm tháng, nhưng tận sâu thẳm cõi lòng vẫn cay nhức nỗi đau đồng đội, đồng chí nên họ lại tiếp tục dấn thân vào thế trận mới…

Nhà báo Trương Thanh Nhã - nguyên Tổng Biên tập, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo tỉnh giới thiệu bộ sưu tầm, lưu giữ tư liệu về báo chí.
Đau hơn cả cái chết
Ông Trương Thanh Nhã thì nghẹn giọng, còn ông Ngô Hoàng Vân thì rưng rưng đôi mắt khi nghe chúng tôi hỏi về sự hy sinh của phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ. Chúng tôi cảm thấy như có lỗi khi khơi lại nỗi đau mà các bác, các chú như cố dấu suốt hơn nửa thế kỷ qua. Bởi điều đó quá tàn khốc và nghiệt ngã hơn cả cái chết. Theo thống kê của Hội Nhà báo tỉnh Kiên Giang, chỉ trong chiến tranh chống Mỹ, toàn tỉnh có hàng chục người làm công tác thông tấn báo chí bị bắt bớ, giam cầm dưới nhiều hình thức và 28 nhà báo hy sinh tại chiến trường. “Giặc bắn phá ác quá, nhiều đồng đội chúng tôi có người mất không toàn thây, có người phải chôn đến hai lần, nhưng cũng có người mãi không thể trở về vì thân xác nằm lại đâu đó dưới lòng đất mẹ U Minh”- giọng ông Nhã nghèn nghẹn - “Đi với chúng tôi một chuyến về U Minh các bạn sẽ hiểu”.
Trên chuyến xe xuôi về Vĩnh Thuận băng qua các cánh rừng tràm bạt ngàn, các bác, các chú tận tình kể, nói đúng hơn là khắc họa cho chúng tôi hiểu tinh thần quật cường của phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ trước cái chết. “Khi phát hiện anh Bảy Trần bị trực thăng xả súng thủng phổi và đùi, người du kích ở gần đó chạy đến dìu ông vào mé rừng, nhưng lượng sức mình không qua khỏi, ông từ chối hỗ trợ mà chỉ đưa quyển sổ tay nhờ người du kích mang đến cơ quan báo Chiến Thắng”, ông Nhã nói. Đồng đội đưa xác ông về an táng ở Nghĩa trang Kè Một (xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận). Nhưng sau nhiều lần địch thả bom, thân xác ông hòa vào lòng đất. Đây là một trong số hàng chục phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ mãi mãi nằm lại chiến trường.
Đau xót hơn có nhiều trường hợp, nhà báo sau khi hy sinh đã mất cả họ tên. Mùa khô năm 1969, địch rải thảm B52 quanh khu vực cơ quan Thông tấn Báo chí, làm 4 người hy sinh. Khi chôn cất, các bác, các chú cẩn thận lập mộ bia cho từng người. Nhưng bom đạn quân thù đã hất tung tất cả. “Ngày đất nước thống nhất, cất bốc hài cốt, không còn dấu vết để xác định chính xác danh tánh cho từng hài cốt, chúng tôi thống nhất viết tên từng người ra rồi bốc thăm để cải táng”. Hồi ức của ông Nhã khiến chúng tôi như đắng lòng khi nhìn ra sự tàn khốc của chiến tranh: Nó không chỉ cướp đi mạng sống mà còn dồn đẩy những nhà báo liệt sĩ đến tận cùng của mất mát khi phải đón nhận danh tánh như trò may rủi. Nhưng có sự thật không bao giờ thay đổi là dù còn tên hay mất cả hình hài, thân xác các bác, các chú vẫn sống trong sự quan tâm của Đảng, của nhân dân.
Tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Vĩnh Thuận, Đảng, Nhà nước đã dành vị trí trang trọng và dựng bia tưởng niệm khắc đủ họ tên từng cán bộ công tác trong ngành tuyên huấn, trong đó có báo chí, đã hy sinh nhưng chưa tìm được hài cốt. Đây là sự ghi nhận và tôn vinh vai trò của những người làm công tác truyền thông trong gia đoạn đặc biệt...
Sau khi trút mưa bom, lửa đạn, nhất là 3 đợt “Nhổ cỏ U Minh”, địch rêu rao đã tiêu diệt được cách mạng, hòng lung lạc lòng tin của dân… Chính lúc này, nhờ những bài báo, những bản tin của các phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ đã kịp thời đập tan luận điệu xuyên tạc sai sự thật của địch, củng cố niềm tin nhân dân.
Nở hoa trên thế trận mới
Mang trong lòng nỗi cay nhức về mất mát của đồng đội trong chiến tranh, sau ngày thống nhất đất nước, các phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ đã dồn sức lao vào thế trận mới. Với tư liệu ghi chép suốt những năm tháng chiến tranh cộng với hàng ngàn trang bản thảo và nhiều tư liệu báo chí được lưu giữ từ thời chiến, ông Nhã thực hiện hàng chục bài viết dưới nhiều thể loại: Tùy bút, phóng sự, bút ký… tái hiện lại chân dung những nhà báo liệt sĩ như “Nhà báo Nguyễn Văn Đức (1917-1957)”, “Nhớ về nhà báo liệt sĩ Hồ Châu”, “Họa sĩ - liệt sĩ Nguyễn Văn Cộng”… Hơn thế nữa, ông còn tập hợp bào viết của đồng đội đã khuất rồi tự tay hoàn thành thủ tục đề nghị Hội Nhà báo Việt Nam tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp báo chí Việt Nam cho hàng chục nhà báo…. Ông còn đảm đương thêm nhiệm vụ tìm thân nhân để trao như trường hợp nhà báo Nguyễn Văn Đức. Sau nhiều lần truy tìm khắp nơi trong tỉnh mà không biết thân nhân ông Đức, ông Nhã phải đăng thông tin lên báo thì con ông Đức đang sống ở TP, Hồ Chí Minh mới về nhận…
Thậm chí có trường hợp đã quá tuổi nghỉ hưu, nhưng vẫn sẵn sàng xung phong cống hiến. Năm 1993, dù đã nghỉ hưu nhiều năm, nhưng khi biết tỉnh Kiên Giang thành lập xã Thổ Châu (huyện Phú Quốc), ông Lê Kim Trắc (1929-2009), nguyên Thư ký tòa soạn báo Chiến Thắng, đã xung phong đưa gia đình xây dựng đảo. “Phải hiểu được bối cảnh lúc đó mới thấy tấm lòng “không dễ có” như anh Trắc”, ông Trần Lam - nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang nhớ lại. Đầu tháng 5-1975, quần đảo Thổ Châu trải qua cuộc thảm sát. Sau đó, quần đảo cuối Biển Tây của Tổ quốc, cách đất liền 200 cây số này như con số không. “Không chỉ không điện, không đường, không trường, không trạm y tế… thậm chí đến những thú vật gần gũi với người như chó, mèo, gà vịt hay những âm thanh quen thuộc mỗi khi đêm xuống như tiếng ếch nhái… cũng không có …”, ông Nguyễn Thái Học - Bí thư kiêm Chủ tịch UBND lâm thời xã Thổ Châu nhớ lại những ngày đầu thành lập đảo.
Tuổi cao, sức khỏe bị bào mòn sau 7 năm bị giặc giam cầm ở nhà tù Phú Lợi, Côn Đảo, nhưng như con tằm cuối đời, cố dồn hết ngày tháng còn lại đời người để dâng cho đời những sợi tơ óng vàng. Khi xã Thổ Châu chính thức thành lập, ngày 8-7-1993, tại Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1993-1995) ông Trắc được tín nhiệm bầu làm Bí thư Chi bộ. Do lúc này toàn xã có chỉ 4 đảng viên, nên ở tuổi 64, ông Trắc vẫn mạnh dạn nhận thêm chức danh Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã. Và không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ thuộc phạm vi chức trách, ông Trắc còn “bao sân” nhiều việc cho cả hệ thống chính trị của xã. “Với kỹ năng viết lách của nhà báo, ông không chỉ “bao sân” việc chấp bút, hoàn chỉnh nhiều báo cáo của xã, mà còn gánh luôn cả công việc của “nhà báo” để viết tin tức của địa phương cung cấp cho các cơ quan truyền thông trong và ngoài tỉnh”, ông Học nhớ lại.
Đi qua cuộc chiến tranh đầy máu lửa, đi qua những năm tháng tưởng chừng như không thể vượt qua, những phóng viên chiến trường Tây Nam Bộ vẫn giữ được trong mình "chất lửa" - một chất lửa cháy vì đồng đội, vì đồng chí, vì nhân dân, vì sự thật và vì lý tưởng cách mạng. Đó không chỉ là niềm tự hào về thế hệ nhà báo tiền bối mà còn là mồi lửa để châm ngọn lửa nhiệt tình cho thế hệ người làm báo hôm nay và mai sau về nhiệt tình và đạo đức nghề nghiệp.