Người gieo hạt nắng
Bà Hòa sống cả đời ở thôn Lách, con cháu năn nỉ miết chẳng chịu chuyển lên thị trấn. Mỗi cuối tuần rảnh rang bài vở, thằng Ân lại cong mông đạp xe về quê chơi với nội. Nó hay theo chân bà nội ra trảng cát hái đào lộn hột, trái chín vàng chín đỏ ăn vừa chua vừa chát, nướng hạt nhai thấy beo béo, bùi bùi.

Giữa trưa nắng chang rát mặt, Ân nhảy ùm xuống khúc sông bên cạnh nhà tắm mát đập nước với bọn trẻ làng. Từng tia nắng lóng lánh trên mặt sông, từ bình minh tới hoàng hôn đều ánh lên màu yên bình.
Và khoái nhất chắc là lúc ngồi trên nền bên hông nhà, thả chân đong đưa xuống dưới sông, đưa mắt nhìn về nơi xa xăm theo mấy chuyện cũ của nội. Bà Hòa ngồi bên cạnh quệt vôi, tém vào chiếc lá trầu xanh, gói cùng miếng cau nhỏ xíu, nhai chòm chẹp đỏ choét môi. Có bữa, Ân tò mò nhai thử, lúc đầu cay hăng, nhưng càng nhai càng ghiền. Chặp sau, Ân say trầu, đầu ong ong quay quay, chọc nội cười đỏ hoe mắt.
Lần đầu bà Hòa ăn trầu là năm mười bốn tuổi, cũng say quắt quay như thế. Nhưng với bà, miếng trầu còn có ý nghĩa khác, dữ dội hơn. Hồi đó, giặc hay tràn khắp nơi lùng sục khám xét. Để tránh bọn chúng làm nhục, các bà các má thôn Lách bày nhau nhai trầu rồi trét nước đỏ lên khắp quần áo, khắp chân hay bụng. Giặc thấy dơ nhớp không dám đụng vào.
***
Mặt trời rơi xuống dòng sông rồi chui trốn sau bụi lác, thôn Lách chìm trong yên ắng. Chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả ở những lùm cây. Trong gió có tiếng lá khô xào xạc dưới chân người. Tim Hòa đánh lô tô trong lồng ngực. Mỗi lần ba về là thon thót run từ má tới con. Cứ sợ từ lùm cây nào đó, tụi mật thám phục kích nhảy ra bắt sống ba và đồng đội. Tháng trước bọn chúng vừa giết hại hai cán bộ ở chợ Mù U.
Chỉ mới cách đây nửa năm, má sên nóng đường bát ép cùng bột gạo thành viên tròn chặt cho Hòa gói ghém mang ra bến ngục thăm ba. Ba được về có lẽ do bọn chúng muốn “thả con săn sắt bắt con cá rô”. Chớ giữ nữa có ích chi, dù dùng xà phòng trộn nước vôi bóp miệng bắt uống hay lấy giày đinh đạp trào bọt mép cũng không thu được tin tức nào từ ba. Hòa liếc thấy các ngón tay ngón chân ba bật móng chưa lành hẳn, rùng mình ngó xuống bàn tay mình.
Mười sáu tuổi, Hòa vẫn nhỏ xí xi, ròm riết, nhưng nhờ đó mà luồn lách tránh địch giỏi. Ba về, Hòa giữ nhiệm vụ coi ngó ở đầu ngõ cho cán bộ họp bàn kế hoạch, tha hồ phơi chân cho muỗi cắn. Hòa không dám đập mạnh, chỉ biết dùng quạt mo cau phe phẩy đuổi, hoặc đợi muỗi no máu thì chà nhè nhẹ tay cho đã ngứa. Hễ thấy động, Hòa sẽ giả vờ ho đánh tiếng.
Ba nhờ Hòa lên chợ xã mua mớ dây dù. Dây dù dùng để cột võng ru em, cột gàu xách nước giếng, cột mành giăng bắt cá tôm, cột ràng mái nhà chống bão. Hòa sẽ trả lời bọn mật thám như thế. Cột tất cả mọi thứ, chỉ trừ việc để các chiến sĩ cột võng mùng ngủ giữa rừng núi đêm đen là Hòa không bao giờ hé miệng. Và cột tải đạn, tải pháo, đó là bí mật tuyệt nhiên được giữ kín.
Đợi ba tiếp tục công vụ, Hòa hăm hở lên gặp các chú, tự xung phong đi chuyển gạo. Cột bao tời thiệt chặt, Hòa đeo trên vai hoặc cõng ở lưng, vừa thấy bọn chó săn ở đầu thôn là ba giò bốn cẳng chui núp bờ lùm. Gặp chốt gác, lăn từng vòng hoặc cúi khom người bò trên bờ ruộng để trốn. Chà người dính bùn đất lem nhem hệt con chó con dưới sình ngoi lên. Mấy bận Hòa lội mương nước bị đỉa bu cắn hoặc có khi nín thở lẩn trong bụi lác rồi bơi dọc dòng sông Lách về nhà.
***
Bà Hòa chỉ tay ra phía mé sông, nơi được lác phủ xanh mấy đời. Bất kể tới mùa người ta cắt lác rất nhiều để đan chiếu, lác vẫn mọc um sùm, lớp cũ chưa kịp héo vàng lớp mới đã lên xanh ngút ngàn. Phiến lá cây lác hẹp, nhỏ xíu nhưng dài, từng bẹ lá ôm lấy thân gốc vút cao lên trời, đoạn nào ngả rạp xuống trở thành nơi phủ che rất tốt.
Cuộc đời bà Hòa hiện ra rõ ràng qua từng câu chuyện kể. Thằng Ân vừa và cơm vừa dỏng tai nghe nội chậm rãi đều giọng. Những điều nó không thể đọc được trong bất kỳ quyển sách giáo khoa nào.
Trong một lần ông cố về thăm nhà, dẫn theo một anh lính trẻ nụ cười tỏa nắng lấp lánh hệt ánh mặt trời trên dòng sông Lách. Thuở mà mọi thứ đều tập trung cho mục tiêu, lý tưởng duy nhất, chỉ cần đánh rơi một ánh mắt, một nụ cười đâu đó cũng đủ làm người nhặt phải mê đắm trọn đời. Bà nội thương người con trai trong màu áo xanh của rừng, màu xanh mộc mạc đầy yên bình và mang dáng dấp hy vọng.
Một mâm cơm cúng nho nhỏ, hai mái đầu xanh chắp tay vái lạy, thế là thành vợ chồng. Ông nội hứa hẹn ngày toàn thắng sẽ tổ chức lễ lớn mời hàng xóm. Bà nội đã chờ, cho tới khi cờ đỏ sao vàng bay phấp phới khắp bầu trời thống nhất, bà dắt tay ba Bình đón di ảnh của ông cố và ông nội trở về.
Ông nội nợ bà một đám cưới đàng hoàng, và trả bằng một đứa con trai giống như tạc. Đó là ba Bình, người đã nhặt Ân về từ bụi cỏ nào đó ven đường. Chất độc màu da cam hình hài ra làm sao, Ân chưa từng thấy. Nhưng qua giọt nước mắt rặn mãi mới rỏ ra từ hai khóe kèm nhèm của bà nội, Ân biết rằng ba Bình bị vô sinh. Chẳng phải máu mủ ruột thịt, ba Bình và bà nội vẫn thương Ân tới tận cùng.
***
Bữa rày, bà nội bắt đầu lẫn lộn mọi thứ. Cứ thấy ba Bình, bà lại cười e thẹn nép mình nấp sau cây cột nhà. Bà vào buồng thay bộ đồ mới, tay vò tà áo, miệng lúng liếng hỏi anh lính trẻ đã về còn ba của bà đâu. Bà ở đây chờ ba của bà lâu lắm mà chẳng thấy. Hay bọn chó săn bắt ông đi rồi. Ân chỉ biết kè kè ở bên bà, sợ xảy ra chuyện. Bà cứ nói trước quên sau, nhắc đi kể lại vài chuyện xưa cũ. Đầu óc bà không ở hiện tại mà mông lung như thể đang sống trong năm tháng hào hùng đó.
Ân có quyển nhật ký nho nhỏ, thường ghi lại mấy lời bà nội hay kể. Phải lưu giữ những ký ức ngày trước, đặng một mai khi bà nội chẳng ở đây nữa, hạt nắng bình yên mà ông cố, ông nội và cả bà nội đã gieo trồng vẫn chiếu sáng mãi mảnh đất này. Như mỗi năm, qua mùa bão nổi gió giật, thôn Lách sẽ trở về với dáng vẻ êm ả vốn có. Như mỗi ngày, mặt trời lại trồi lên từ bụi lác xanh tốt nơi mé sông, rọi những tia lóng lánh xuống dòng sông trong veo quê nhà.