Ngôi sao Nguyễn Đình Thi đã tỏa sáng một vùng trời

Đây là câu nói của Giáo sư Hà Minh Đức dành để tôn vinh tài năng đặc biệt của nhà văn hóa lớn, nghệ sĩ lớn Nguyễn Đình Thi tại Hội thảo khoa học toàn quốc 'Di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cho hôm nay' nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông (20/12/1924 - 20/12/2024).

Vở "Rừng trúc", kịch bản Nguyễn Đình Thi, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã trở thành tác phẩm sân khấu kinh điển.

Vở "Rừng trúc", kịch bản Nguyễn Đình Thi, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi đã trở thành tác phẩm sân khấu kinh điển.

Một chân dung lớn

Nhiều năm sau nhìn lại, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, văn nghệ sỹ, cùng chung quan điểm: Nguyễn Đình Thi là một trong những nghệ sỹ lớn, tài năng bậc nhất của Việt Nam thế kỷ 20. Ông sáng tác ở nhiều lĩnh vực, từ thơ ca, tiểu thuyết, lý luận, phê bình văn chương, đến nghiên cứu triết học, dịch thuật, sân khấu, âm nhạc...

Đáng quý là dù ở lĩnh vực nào nhà văn Nguyễn Đình Thi cũng đều có những đóng góp to lớn, mang tính kế thừa tinh hoa văn hóa, văn nghệ dân tộc, đồng thời khai phá, cách tân theo hướng khoa học, hiện đại.

Giáo sư Hà Minh Đức đánh giá: "Toàn bộ những sáng tác thuộc các thể loại đều thực hiện theo phương châm nhất quán: đổi mới. Ông quan niệm cuộc đời mới, chế độ xã hội mới, thị hiếu mới của công chúng thì văn nghệ phải đổi mới.”

Nhà văn Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924 ở Luang Prabang (Lào), nhưng quê gốc ông là làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, Hà Nội.

Năm 1931, ông cùng gia đình về quê hương. Ông say mê văn chương, âm nhạc, mỹ thuật từ nhỏ; học và tìm hiểu triết học khi còn là học sinh trường Bưởi, sau là Ban Triết Trường Đại học Đông Dương. Ông đã viết nhiều sách triết học như Triết học nhập môn, Triết học Einstein, Triết học Kant, Triết học Nietzsche, Siêu hình học và Triết học Descartes.

Nguyễn Đình Thi tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn rất trẻ. Những năm 1940 ông tham gia Tổ Văn hóa cứu quốc, sau đó là Hội Văn hóa cứu quốc. Năm 1945, ông tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, được bầu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa 1, 2, 3.

Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tiếp tục viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình.

Sau năm 1954 ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ năm 1958 đến năm 1989, ông là Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.

Trong văn học, Nguyễn Đình Thi là nhà văn có nhiều tiểu thuyết nổi bật như “Xung kích”, “Thu Đông năm nay”, “Bên bờ sông Lô”, “Vào lửa”, “Mặt trận trên cao”... Đặc biệt, bộ tiểu thuyết hai tập “Vỡ bờ” phản ánh bức tranh đa chiều của xã hội Việt Nam thời kỳ 1939-1945, đã đưa Nguyễn Đình Thi lên vị thế tiên phong của dòng tiểu thuyết sử thi hào hùng và lãng mạn của nền văn học nước ta giai đoạn 1946-1985.

Với thơ, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có phong cách rất riêng, độc đáo, hiện đại, hàm súc, giàu nhạc điệu. Thơ là lĩnh vực Nguyễn Đình Thi dành nhiều tâm huyết, luôn trăn trở tìm tòi hướng sáng tạo nhằm đổi mới diện mạo thơ ca và cũng là lĩnh vực ghi đậm tên tuổi ông với những bài thơ hay vào bậc nhất của nền thơ ca Việt Nam như “Đất nước”, “Nhớ”, “Bài thơ Hắc Hải”, “Lá đỏ”...

Trong số đó, bài thơ “Đất nước” là tác phẩm được nhiều thế hệ người Việt Nam biết đến và đọc thuộc lòng với những câu thơ sừng sững: “Nước chúng ta/ Nước của những người không bao giờ khuất/ Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về…”. Hay: “Nước Việt Nam từ máu lửa/Rũ bùn/ Đứng dậy/ Sáng lòa”.

Về nghệ thuật kịch, giới phê bình đã nhận xét kịch của Nguyễn Đình Thi là một thế giới văn hóa đa dạng nhiều màu sắc, giàu chất thơ, nhạc điệu triết lý, đan xen hài hòa giữa hiện thực và sự liên tưởng khiến tác phẩm của ông mang một dấu ấn đặc biệt. Hàng chục vở kịch của Nguyễn Đình Thi đã để lại dấu ấn sâu sắc trên sân khấu kịch Việt Nam như: “Con nai đen” (1961), “Hoa và Ngần” (1975), “Giấc mơ” (1983), “Rừng trúc” (1978), “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” (1979), “Người đàn bà hóa đá” (1980), “Tiếng sóng” (1980), “Cái bóng trên tường” (1982), “Trương Chi” (1983), “Hòn Cuội” (1983-1986)...

Trong đó, vở “Rừng trúc” được dàn dựng bởi đạo diễn gạo cội Nguyễn Đình Nghi đã trở thành tác phẩm sân khấu kinh điển của Việt Nam.

Trong lĩnh vực âm nhạc, chỉ với 6 ca khúc trong sự nghiệp sáng tác: “Căm hờn”, “Diệt phát xít”, “Du kích quân” (1945), “Người Hà Nội” (1947), “Con voi” (1948), “Đất nước yêu thương” (1977) nhưng 3 ca khúc đầu tiên là những tác phẩm đặc sắc của âm nhạc Việt Nam.

Về lĩnh vực lý luận, phê bình văn học, Nguyễn Đình Thi là một cây bút sắc sảo với phong cách riêng biệt. Đặc biệt, từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi đã viết “Nhận đường” năm 1948. Đây là một trong những tác phẩm văn nghệ tiêu biểu thể hiện tư tưởng của ông về con đường nghệ thuật và xác định sứ mệnh của văn nghệ sĩ đối với kháng chiến và dân tộc. Nguyễn Đình Thi nhấn mạnh văn học, nghệ thuật phải chuyển mình để phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh.

Di sản để lại

Theo PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, di sản văn hóa, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi để lại cho đất nước thật đồ sộ, phong phú, quý giá. Ông Nguyễn Thế Kỷ đánh giá Nguyễn Đình Thi là một trong những tên tuổi lớn của văn hóa, văn nghệ Việt Nam hiện đại, thông tuệ, đa tài, xuất sắc ở nhiều lĩnh vực.

“Nguyễn Đình Thi đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ với những tác phẩm có giá trị nhiều mặt, sống mãi với thời gian. Thành công trong các sáng tác của ông nổi rõ ở tính tư tưởng, tính nhân văn, nghệ thuật đặc sắc, bút pháp phóng khoáng mà nhuần nhị. Ở đó, hòa quyện lòng yêu nước với lý tưởng cách mạng, tính dân tộc và tính hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, nhất là văn hóa Pháp, Nga, châu Âu, khát vọng tự do và bản chất nhân hậu, đằm thắm rất Việt Nam.” – ông Nguyễn Thế Kỷ nhận định.

Đây cũng là quan điểm của GS Phong Lê khi ông cho rằng Nguyễn Đình Thi là một chân dung lớn, một nghệ sỹ lớn, một nhà văn hóa lớn trên rất nhiều phương diện. Theo GS, ở Nguyễn Đình Thi hội tụ đầy đủ cả tài năng, tầm vóc và bản lĩnh. Đối với Nguyễn Đình Thi, tài năng gần như bẩm sinh, ngay từ khi xuất hiện ở tuổi trên dưới 20. Một tài năng rất đa dạng gần như xuất hiện cùng lúc hoặc xen cài, khiến cho nói đến Nguyễn Đình Thi là nói đến nhiều danh xưng như nhạc sỹ, thi sỹ, văn sỹ, kịch-tác giả, lý luận-phê bình... bên cạnh nhà hoạt động xã hội và nghề nghiệp có vị trí cao và thâm niên dài trong giới văn hóa, văn nghệ kể từ trước 1945 cho đến khi ông qua đời.

Nhạc sỹ Nguyễn Đức Trịnh, Chủ tịch Hội Nhạc sỹ Việt Nam cho rằng, ở lĩnh vực âm nhạc, dù ông có một số lượng tác phẩm âm nhạc khiêm tốn, nhưng chỉ với hai tuyệt phẩm “Diệt phát xít” và “Người Hà Nội,” Nguyễn Đình Thi đã có tên trên “bảng vàng” biên niên sử bằng âm thanh của dân tộc, trở thành tượng đài âm nhạc cách mạng Việt Nam.

PGS.TS Tôn Phương Lan (Viện Văn học) cho rằng Nguyễn Đình Thi là một nghệ sỹ tài hoa, đã tự dựng được chân dung nghệ thuật của mình một cách sắc nét bằng chính các tác phẩm văn chương, nghệ thuật ở nhiều thể loại, bằng sự cống hiến ở cương vị người quản lý cấp cao của Hội Nhà văn và bằng sự tỏa sáng của tài năng, trí tuệ và phong cách. Bức chân dung ấy có thể nhìn ngắm từ nhiều góc, dưới nhiều thứ ánh sáng khác nhau và ở góc nhìn nào cũng đều lấp lánh một vẻ đẹp riêng.

Nhất là trên các cương vị Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam, ông đã thể hiện tầm tư duy, trí tuệ, tầm nhìn chiến lược và khả năng nắm bắt hơi thở đời sống đất nước.

Những vị trí công tác mà ông từng trải qua, mọi người không chỉ khâm phục tài năng, uy tín về chuyên môn của ông mà còn quý trọng những ý tưởng, góc nhìn từ ông về xây dựng và phát triển nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến thời kỳ hòa bình, đổi mới.

CẨM ANH

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/ngoi-sao-nguyen-dinh-thi-da-toa-sang-mot-vung-troi-10298578.html
Zalo