Nghị quyết 68-NQ/TW: Khi tư nhân là trung tâm, sáng tạo là động lực
Nghị quyết 68-NQ/TW đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy phát triển kinh tế của Đảng khi lần đầu tiên xác lập 'kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân'.
Điều đặc biệt không chỉ nằm ở cách gọi tên chủ thể, mà còn ở cấu trúc hệ thống chính sách đi kèm: Một mặt trao vị thế trung tâm cho kinh tế tư nhân, mặt khác thiết kế cơ chế để khu vực này phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ và công nghệ hiện đại.
Có thể nói, nghị quyết này không chỉ là tuyên ngôn chính trị mà còn là bản thiết kế cho mô hình phát triển dựa vào nội lực - sáng tạo - và hội nhập chất lượng cao.

Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm
Hội nhập thực chất nếu doanh nghiệp tư nhân có năng lực cạnh tranh
Nhìn vào tần suất xuất hiện của các từ khóa trong nghị quyết, có thể thấy hai nhóm nội dung nổi bật, đan cài và bổ trợ cho nhau: nhóm thứ nhất là “kinh tế tư nhân”, “doanh nghiệp tư nhân”, “doanh nghiệp nhỏ và vừa”, “doanh nhân”; nhóm thứ hai là “đổi mới sáng tạo”, “sở hữu trí tuệ”, “chuyển đổi số”, “khoa học và công nghệ”. Đây không đơn thuần là các khái niệm tách biệt mà là hai chân kiềng tạo nên sức mạnh tổng hợp: chủ thể phát triển và phương thức phát triển.
Với 111 lần được đề cập, nhóm từ “kinh tế tư nhân” và các biến thể liên quan thể hiện tư tưởng xuyên suốt: lấy tư nhân làm trung tâm của quá trình sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng. Nghị quyết không chỉ khẳng định vai trò, mà còn đưa ra hàng loạt yêu cầu cụ thể: bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng và tiếp cận công bằng các nguồn lực như đất đai, tín dụng, dữ liệu và cơ hội thị trường.
Doanh nhân không còn bị xem là “đối tượng quản lý” mà được xác lập vị trí là “người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”, xứng đáng được tôn vinh, bảo vệ và khuyến khích.
Tuy nhiên, Đảng cũng nhìn rõ chỉ riêng khát vọng và nỗ lực của khu vực tư nhân là chưa đủ. Trong một thế giới cạnh tranh gay gắt, đổi mới sáng tạo, công nghệ và tài sản trí tuệ mới là các yếu tố phân tầng giá trị.
Chính vì vậy, nghị quyết dành 42 lần để đề cập đến nhóm từ “đổi mới sáng tạo”, “sở hữu trí tuệ”, “chuyển đổi số”, “khoa học và công nghệ”.
Không dừng ở kêu gọi, nghị quyết đi vào chính sách cụ thể: cho phép khấu trừ 20% chi phí nghiên cứu - phát triển, miễn – giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ chi phí đăng ký sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước, khuyến khích chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI về khu vực tư nhân nội địa…
Tư duy pháp lý cũng thay đổi khi lần đầu tiên đề cập đến sandbox – mô hình thử nghiệm chính sách có kiểm soát đối với công nghệ mới, mở lối cho các mô hình kinh doanh số, tài sản ảo, tài sản vô hình, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử và nền tảng số.
Kết nối hai nhóm chính sách này là một triết lý phát triển hiện đại: tăng trưởng bền vững phải được xây dựng từ nội lực của xã hội mà điển hình là khu vực tư nhân, và phải dựa trên năng lực đổi mới không ngừng – được bảo vệ bằng thể chế sở hữu trí tuệ và hỗ trợ bằng công cụ pháp lý. Một doanh nghiệp nhỏ cũng có thể vươn xa nếu sở hữu công nghệ lõi, có tư duy sáng tạo, có thương hiệu và biết khai thác tài sản vô hình. Một nền kinh tế có thể hội nhập thực chất nếu doanh nghiệp tư nhân có năng lực cạnh tranh trên chuỗi giá trị toàn cầu.
Vai trò của nhà nước là kiến tạo và phục vụ
Chính ở đây, vai trò của nhà nước được xác lập lại: không còn là cơ quan “quản lý” mà là “kiến tạo và phục vụ”. Nghị quyết yêu cầu chuyển hẳn từ tiền kiểm sang hậu kiểm, xóa bỏ các rào cản hành chính, minh bạch hóa và số hóa thủ tục, cắt giảm ít nhất 30% chi phí tuân thủ, và cho phép tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm. Song song, Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp, khuyến khích hợp tác công tư, thúc đẩy chia sẻ dữ liệu, hỗ trợ khởi nghiệp và khuyến khích tài chính đổi mới.
Điều đáng giá nhất của Nghị quyết 68 là ở tầm nhìn dài hạn. Mục tiêu không chỉ là có 2 triệu doanh nghiệp, đóng góp hơn 60% GDP vào năm 2045. Điều quan trọng là định hình một khu vực kinh tế tư nhân mang bản sắc Việt: năng động, đổi mới, có trách nhiệm xã hội, thượng tôn pháp luật và đủ sức cạnh tranh quốc tế. Đó không thể là kết quả của riêng doanh nghiệp hay riêng nhà nước, mà là sự phối hợp của một hệ sinh thái phát triển – trong đó tư duy chính sách, thể chế pháp lý, nguồn lực xã hội và trí tuệ con người cùng vận hành.
Khi “kinh tế tư nhân” và “đổi mới sáng tạo” không còn được nhắc riêng lẻ mà cùng hiện diện trong một nghị quyết chiến lược, điều đó có nghĩa là chúng đã trở cấu thành không thể tách rời của tương lai kinh tế Việt Nam. Chính sách đúng đắn sẽ không chỉ giúp tư nhân làm giàu - mà còn góp phần làm mạnh đất nước. Và chỉ khi sáng tạo được bảo vệ, tài sản trí tuệ được tôn trọng, đổi mới được khuyến khích thực chất – tư nhân mới thực sự có đất để lớn, có động lực để bứt phá, và có niềm tin để đồng hành lâu dài.