Nghị quyết 57: Bộ Công Thương sớm quan tâm xây dựng hệ dữ liệu thành tư liệu sản xuất
Bộ Công Thương đã sớm chú trọng xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu ngành để đảm bảo thành công việc xây dựng Chính phủ số và đẩy mạnh chuyển đổi số, kinh tế số.
Đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính
Cũng như đất đai và lao động trong kỷ nguyên nông nghiệp; công nghệ và vốn trong kỷ nguyên công nghiệp; dữ liệu - một loại tài nguyên, tài sản, “đất đai của không gian mới”, đang ngày càng trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất trong kỷ nguyên số, tạo ra sự bứt phá tăng trưởng kinh tế số. Thậm chí, dữ liệu còn được ví là “dầu mỏ”, nguyên liệu cho nền kinh tế số...
Ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã tiếp tục khẳng định vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển, khai thác sức mạnh của dữ liệu trong thời đại kỷ nguyên số.
Cụ thể, tại Nghị quyết đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi trước một bước.
Phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số trên nguyên tắc "hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí"; làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.
Đồng thời, đặt ra mục tiêu đến năm 2030: Hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc.
Quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu.
Đặc biệt, Nghị quyết 57 đã đưa ra nhiệm vụ giải pháp: Có cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đầu tư, xây dựng trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây; thu hút doanh nghiệp nước ngoài đặt trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây tại Việt Nam. Hình thành hạ tầng lưu trữ, tính toán đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn xanh.
Sớm hoàn thành và phát huy hiệu quả Trung tâm dữ liệu quốc gia; đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu vùng. Xây dựng, phát huy hiệu quả dữ liệu quốc gia, dữ liệu của bộ, ngành, địa phương bảo đảm liên thông, tích hợp, chia sẻ.
Bên cạnh đó, có cơ chế, chính sách bảo đảm dữ liệu thành nguồn tài nguyên tư liệu sản xuất quan trọng. Xác lập quyền sở hữu, kinh doanh dữ liệu và phân phối giá trị tạo ra từ dữ liệu. Phát triển kinh tế dữ liệu, thị trường dữ liệu và các sàn giao dịch dữ liệu. Xây dựng các cơ sở dữ liệu lớn có chủ quyền của Việt Nam. "Hình thành ngành công nghiệp dữ liệu lớn của Việt Nam. Phát triển mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo dựa trên dữ liệu lớn đối với các ngành, lĩnh vực quan trọng" - Nghị quyết 57 nhấn mạnh.
Bộ Công Thương sớm nhập cuộc từ các văn bản chỉ đạo...
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển, khai thác dữ liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng để đảm bảo thành công trong việc xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, kinh tế số, xã hội số... Bộ Công Thương đã sớm phát huy tinh thần "đi tắt đón đầu", chủ động từ sớm với nhiều văn bản chỉ đạo điều hành cùng các hành động cụ thể trong vấn đề này, đặc biệt trong suốt hơn 2 năm vừa qua.
Có thể kể đến, ngày 30/10/2023, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã ký Quyết định số 2795/QĐ-BCT ban hành Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển ngành Công Thương đến năm 2030 đã định hướng nhiệm vụ chủ yếu: Đẩy mạnh đầu tư tăng cường tiềm lực, xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng, cơ sở dữ liệu, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin, thống kê khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngành Công Thương theo hướng đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, vận hành.
Chiến lược này còn nêu rõ, với lĩnh vực công nghiệp năng lượng, năng lượng tái tạo: Nghiên cứu phát triển và đưa vào sử dụng các công nghệ điều khiển hiện đại để đảm bảo vận hành tối ưu hệ thống điện; hiện đại hóa hệ thống điều độ, vận hành, thông tin liên lạc, điều khiển và tự động hóa phục vụ điều độ lưới điện trong nước và liên kết khu vực; ứng dụng các công nghệ số hiện đại như: Công nghệ hạ tầng hội tụ, công nghệ điện toán đám mây, công nghệ ảo hóa, trí tuệ nhân tạo, công nghệ xử lý dữ liệu lớn, công nghệ mobile computing, công nghệ IoT... bảo đảm an toàn và an ninh thông tin.
Ứng dụng công nghệ đo đếm tiên tiến - thông minh (smart metering) để theo dõi sử dụng điện của khách hàng, chống thất thoát trong kinh doanh điện, phục vụ nghiên cứu dự báo phụ tải và các yêu cầu của quản lý điều hành; sử dụng công nghệ công tơ đọc dữ liệu, thu nhận dữ liệu từ xa; tự động hóa lưới phân phối gắn liền với dịch vụ khách hàng và quản lý nhu cầu.
Một điểm nhấn đáng chú ý đó là ngày 29/12/2023, Bộ Công Thương có Quyết định số 3411/QĐ-BCT ban hành danh mục cơ sở dữ liệu và cơ sở dữ liệu mở của Bộ Công Thương. Trong đó, xác định 40 danh mục cơ sở dữ liệu của Bộ Công Thương và nêu rõ yêu cầu như: Cơ sở dữ liệu cơ khí chế tạo; cơ sở dữ liệu ô tô; cơ sở dữ liệu dệt may; cơ sở dữ liệu da giày; cơ sở dữ liệu điện tử… với tần suất cập nhật hàng tuần; cơ sở dữ liệu bảo vệ người tiêu dùng với tần suất cập nhật theo giờ.
Ví dụ như, cơ sở dữ liệu cơ khí chế tạo cung cấp thông tin về các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, bao gồm thông tin cơ bản thể hiện quy mô, năng lực, sản phẩm, công nghệ, tiêu chuẩn, khách hàng, thị trường; cơ sở dữ liệu ô tô đáp ứng nhu cầu nắm bắt, tìm hiểu thông tin về lĩnh vực cơ khí chế tạo của cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực cơ khí chế tạo và các doanh nghiệp khác sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh…
Với cơ sở dữ liệu bảo vệ người tiêu dùng chứa đựng các thông tin, dữ liệu về: Cơ quan, tổ chức và đầu mối của các cơ quan, tổ chức tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên toàn quốc; cuộc gọi đến và đi, nội dung tư vấn, hỗ trợ cho người tiêu dùng thông qua hệ thống Tổng đài Tư vấn, hỗ trợ người tiêu dùng 1800.6838; đơn, thư, nội dung yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của người tiêu dùng; quá trình và kết quả tiếp nhận, xử lý đơn, thư, yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của người tiêu dùng bởi cơ quan, tổ chức tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp có kết nối tới hệ thống cơ sở dữ liệu bảo vệ người tiêu dùng...
Tiếp tục "dòng chảy đó", ngày 19/4/2024, Bộ Công Thương có Quyết định số 933/QĐ-BCT về ban hành Quy chế duy trì, vận hành và quản lý cơ sở dữ liệu kinh tế công nghiệp và thương mại, quy định về việc tổ chức duy trì, vận hành, quản lý và khai thác cơ sở dữ liệu kinh tế công nghiệp và thương mại; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thu thập, cung cấp thông tin, khai thác, sử dụng thông tin, bảo mật và an toàn thông tin thuộc cơ sở dữ liệu này.
Cơ sở dữ liệu kinh tế công nghiệp và thương mại được tổ chức theo các nhóm sau: Dữ liệu về công nghiệp và năng lượng; dữ liệu về thương mại trong nước; dữ liệu về xuất khẩu của Việt Nam; dữ liệu về nhập khẩu của Việt Nam; dữ liệu về tiềm lực công nghiệp và thương mại; dữ liệu về thị trường ngoài nước; tài liệu, báo cáo về kinh tế, công nghiệp, thương mại; thông tin tổng hợp theo ngành.
Quyết định số 933 cũng yêu cầu: Tổ chức vận hành đảm bảo an toàn, thông suốt, liên tục cơ sở dữ liệu kinh tế công nghiệp và thương mại; định kỳ hàng năm rà soát, đề xuất phương án nâng cấp, chỉnh sửa hệ thống hạ tầng phần cứng và phần mềm của cơ sở dữ liệu cho phù hợp với nhu cầu thực tế và mặt bằng kỹ thuật công nghệ thông tin thực tế; bổ sung, điều chỉnh dữ liệu điện tử trong cơ sở dữ liệu theo yêu cầu thực tiễn, theo chính sách, quy định chung về thống kê của Việt Nam và quốc tế.
Chưa dừng lại, ngày 30/12/2024, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 3649/QĐ-BCT phê duyệt Đề án “Xây dựng cơ sở dữ liệu của các ngành sản xuất trong nước nhằm nâng cao năng lực điều tra phòng vệ thương mại và theo dõi hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2025-2030”.
Những mục tiêu cụ thể đã được đưa ra như: Đến năm 2026: Hoàn thành cơ sở dữ liệu của 5 ngành sản xuất trong nước có hàng hóa liên quan đến biện pháp phòng vệ thương mại đang áp dụng và ngành sản xuất trong nước có hàng hóa liên quan đến vụ việc điều tra phòng vệ thương mại có thể được khởi xướng.
Đến năm 2030: Hoàn thành cơ sở dữ liệu của 20 ngành sản xuất trong nước có hàng hóa liên quan đến biện pháp phòng vệ thương mại đang áp dụng và 6 ngành sản xuất trong nước có hàng hóa liên quan đến vụ việc điều tra phòng vệ thương mại có thể được khởi xướng, cập nhật dữ liệu của các ngành sản xuất trong nước đã có cơ sở dữ liệu...
Đây là bước đi đột phá, quyết liệt của Bộ Công Thương nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả điều tra phòng vệ thương mại; đồng thời theo dõi, đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại, đóng vai trò là công cụ chiến lược trong việc bảo vệ sản xuất trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và đảm bảo sự cạnh tranh công bằng tại thị trường trong nước.
... đến hành động quyết liệt, kịp thời
Mới đây, tại Hội nghị tổng kết công tác xây dựng Đảng của Bộ Công Thương, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chỉ đạo một số nhiệm vụ cần phải tập trung cho năm 2025, năm cuối của nhiệm kỳ 5 năm theo nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng.
Trong các nhiệm vụ đó, Bộ trưởng cho biết: Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Do đó, đây cũng là thách thức đối với ngành Công Thương. Một mặt, để đạt được tăng trưởng cao cho ngành Công Thương, cần có đột phá về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mặt khác, việc chuyển đổi diễn ra nhanh chóng thì áp lực rất lớn.
"Theo đó, cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực công nghiệp phải được hoàn thành gấp rút. Ngoài ra, việc triển khai đầu tư phần cứng và phần mềm cũng cần hoàn thành và kết nối với nhau" - Bộ trưởng nói, đồng thời nhấn mạnh, nếu không hoàn thành sớm thì khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ không thể phát huy hiệu quả, cụ thể không thể dùng AI, công nghệ điện tử, điện toán đám mây…
Trong suốt thời gian qua, "nói đi đôi với làm" Bộ Công Thương đã có nhiều hành động rất cụ thể để hiện thực hóa việc xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu hiện đại, đồng bộ và hiệu quả.
Minh chứng là việc, để đảm bảo quản lý và điều hành xăng dầu hiệu quả, Bộ Công Thương đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông để xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý và điều hành xăng dầu quốc gia. Hệ thống hiện đã đi vào vận hành tại địa chỉ: http://quanlyxangdau.moit.gov.vn, góp phần đảm bảo thị trường xăng dầu ổn định, minh bạch hơn thông qua ngăn chặn hành vi sai phạm trong kinh doanh xăng dầu và hỗ trợ điều tiết cung cầu.
Quay ngược lại thời gian ngày 24/3/2022, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã chủ trì buổi làm việc cùng các đơn vị liên quan thuộc hai Bộ nhằm thống nhất phương án triển khai xây dựng hệ thống phần mềm quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu.
Ở thời điểm đó, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp nhập khẩu, thương nhân phân phối xăng dầu được thông qua hệ thống báo cáo bằng giấy. Khi Bộ Công Thương cần tổng hợp số liệu, dữ liệu gì, các doanh nghiệp mới báo cáo. “Vì vậy, hình thức báo cáo này chưa kịp thời, nhanh chóng, chưa thật khách quan, chính xác”, Bộ trưởng đánh giá.
Đối với các cửa hàng bán lẻ xăng dầu, muốn biết tình hình hoạt động chung, Bộ Công Thương cũng phải yêu cầu từ các địa phương (thông qua Sở Công Thương) thì mới có được dữ liệu. Đây là cách làm rất thủ công, không phù hợp với xu thế hiện nay.
Trong khi, xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, hoạt động theo nhiệm vụ chính trị, bảo đảm bình ổn thị trường, là đầu vào quan trọng cho nhiều hoạt động sản xuất. Vì vậy, phương án xây dựng 1 website để quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu và trên website sẽ có toàn bộ các dữ liệu theo các báo cáo của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xăng dầu là việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất kịp thời, lâu dài.
Cũng trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã ban hành kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ việc chuyển đổi số quốc gia; đảm bảo việc tuân thủ quy định pháp luật và tăng cường đảm bảo an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ; Đề án Trung tâm dữ liệu quốc gia và Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ Công Thương.
Đồng thời, đẩy mạnh phát triển các hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến, đẩy mạnh triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo toàn trình và chất lượng.
Đến thời điểm này, Cổng Dịch vụ công Bộ Công Thương đang cung cấp 267 dịch vụ công trực tuyến (168 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 99 dịch vụ công trực tuyến một phần), với gần 54.000 doanh nghiệp tham gia khai báo. Tổng số hồ sơ nộp qua các dịch vụ công trực tuyến của Bộ trong 10 tháng năm 2024 là hơn 1,3 triệu bộ hồ sơ, tương ứng hơn 99% tổng số hồ sơ được gửi đến Bộ.
Tiếp tục vận hành, kết nối Nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu dùng chung của Bộ Công Thương (LGSP) với Nền tảng kết nối, chia sẻ dữ liệu dùng chung Quốc gia (NGSP); Hệ thống chia sẻ thông tin giám sát an toàn thông tin của Bộ Công Thương với Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC) do Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng, góp phần đẩy mạnh việc phát triển Chính phủ điện tử, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin tại Bộ Công Thương nói riêng và cả nước nói chung.
Theo đánh giá, xếp hạng về mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin mức độ phát triển Chính phủ điện tử, mức độ số hóa trong hoạt động của các đơn vị, về chỉ số phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công, Bộ Công Thương hiện đang đứng đầu các Bộ, ngành trong cả nước.
Cụ thể, kết quả số hóa hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính trong 10 tháng năm 2024 như sau: Tỷ lệ hồ sơ cấp kết quả điện tử đạt 95,38%; tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính số hóa, kết quả giải quyết thủ tục hành chính đạt 95,36%.
Về kết nối Cổng Dịch vụ công Bộ Công Thương với Cổng Dịch vụ công quốc gia, với quan điểm và thực tiễn lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, đến nay, Bộ Công Thương đã đưa tổng cộng 129 dịch vụ công trực tuyến của Bộ Công Thương lên Cổng dịch vụ công quốc gia. Trong 10 tháng đầu năm 2024, Cổng dịch vụ công Bộ Công Thương đã trao đổi gần 1,5 triệu bộ hồ sơ điện tử với Cổng dịch vụ công quốc gia.
Ngoài ra, trong năm 2024, Bộ cũng tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan để nâng cấp hệ thống phần mềm quản lý cán bộ theo mẫu lý lịch 2c hợp nhất (với 109 trường dữ liệu thông tin) theo quy định tại Thông tư 06/2023/TT-BNV và đẩy mạnh việc ứng dụng chữ ký số chuyên dùng trên hệ thống quản lý văn bản điện tử của Bộ...
Những nỗ lực đó sẽ là "điểm tựa" để ngành Công Thương có sự đột phá mạnh mẽ hơn nữa trong công tác quản lý ngành nói chung và chuyển đổi số nói riêng, đặc biệt trong việc thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Tại Quyết định số 142/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030 khẳng định, dữ liệu là nguồn tài nguyên mới, là yếu tố then chốt cho chuyển đổi số quốc gia, tạo ra giá trị mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phục vụ lợi ích người dân.