Ngày Xuân nói chuyện bảo tồn văn hóa truyền thống vùng biên
Đất nước ta có 25 tỉnh biên giới trên bộ, giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia. Vùng biên giới ở nước ta có hệ thống di sản văn hóa phong phú, đa dạng với nhiều sắc thái văn hóa đặc sắc, hấp dẫn. Nơi đây cũng là vùng biên cương, 'phên dậu' của Tổ quốc, với vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tập trung thành từng thôn, bản, có khi rải rác, đan xen, nhưng vẫn tạo thành nhiều tộc người với bản sắc văn hóa riêng, còn lưu giữ được các di sản văn hóa có giá trị lâu bền.
Theo kết quả điều tra dân số năm 2019, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số, với số dân là 14,2 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước, trong đó, có 6 dân tộc trên 1 triệu người; 14 dân tộc dưới 10.000 người; 5 dân tộc dưới 1.000 người. Đồng bào dân tộc thiểu số đa phần sinh sống thành cộng đồng ở 4 khu vực: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và duyên hải miền Trung Bộ. Về phương diện tộc người, vùng biên phía Bắc là nơi cư trú của các tộc người Tày, Nùng, Thái, Mường, Mông, Dao, Sán Dìu, Hà Nhì, Khơ Mú... Vùng biên Tây Nguyên là nơi cư trú của các tộc người Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, M'nông, Chu Ru, Chơ Ro, Brâu, X’tiêng, Giẻ-Triêng... Vùng duyên hải miền Trung là nơi cư trú của người Chăm, Raglai... Vùng biên Tây Nam Bộ là nơi cư trú của người Khmer, Chăm, Hoa.
Nói đến vùng biên là nói đến những địa phương có một nền văn hóa truyền thống đa dạng về loại hình, phong phú về thể loại và giàu có trữ lượng tác phẩm. Chẳng hạn, tỉnh Điện Biên có các thửa ruộng bậc thang gắn với hệ thống mương - phai - lái - lín (hệ thống tưới tiêu nổi tiếng của dân tộc Thái và các dân tộc vùng Tây Bắc); có những mái nhà sàn cao ráo, thoáng mát, được trang trí bởi khau cút trên nóc nhà đầu hồi cửa chính của người Thái. Ở huyện Điện Biên Đông, huyện Tuần Giáo, người Mông dựng các nếp nhà trình tường có kiến trúc độc đáo bằng đất, phù hợp với điều kiện khí hậu vùng rẻo cao.
Đồng thời, tỉnh Điện Biên cũng có một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, như các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, tập quán, lễ hội, trò chơi dân gian. Trong đó, nhiều di sản đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, như nghệ thuật xòe Thái tỉnh Điện Biên, Tết Nào pê chầu của người Mông Đen (bản Nậm Pọng, xã Mường Đăng, huyện Mường Ẳng), Lễ hội đền Hoàng Công Chất (Thành Bản Phủ, xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên), Lễ Tủ cải (Lễ đặt tên âm - tên thứ hai cho người con trai đã trưởng thành) của người Dao Quần Chẹt (bản Huổi Lóng, xã Huổi Só, huyện Tủa Chùa).
Hoặc tỉnh Cao Bằng có kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, giàu có giá trị. Trong đó, có 102 di tích được xếp hạng (3 di tích quốc gia đặc biệt, 26 di tích cấp quốc gia, 73 di tích cấp tỉnh), 2 bảo vật quốc gia; hơn 2.000 di sản văn hóa phi vật thể đã được tư liệu hóa, trong đó có 7 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Lễ hội của đồng bào các dân tộc ở Cao Bằng nhằm cầu trời ban điều an lành cho dân bản, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, gia súc không bị dịch bệnh, đời sống ấm no, hạnh phúc. Về dân ca, người Tày có lượn, gồm: Lượn slương, Lượn cọi, Lượn ngạn, hát Then - đàn tính; người Nùng có Lượn phủ, Lượn tại, Lượn Hèo phưn Nùng An, Sli giang, Nàng ới...; người Dao có Páo dung. Về múa, người Tày có múa Sluông, múa chầu; người Nùng có múa quạt, múa khăn; người Dao có múa chuông, múa trống; người Mông múa ô, múa khèn...
Hay tỉnh Gia Lai có những thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ giữa đại ngàn như: Biển Hồ, hồ Ia Ly, hồ Ayun Hạ, thác Phú Cường, có di tích quốc gia đặc biệt Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo, di tích khảo cổ thời đại Đá cũ Rộc Tưng-Gò Đá (niên đại khoảng 80 vạn năm), có Không gian văn hóa cồng chiêng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia có Sử thi của người Ba Na (các huyện Đak Đoa, Đak Pơ, Kbang, Kông Chro), Lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui (Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện).
Như thế, chính các di sản văn hóa ấy là văn hóa truyền thống của các tộc người ở vùng biên. Trách nhiệm của thế hệ hôm nay là bảo tồn, bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa ấy, tức là bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở vùng biên. Sau hơn 20 năm triển khai Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, cùng với sự nỗ lực, cố gắng vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số, tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có bước phát triển rõ rệt.
Nhìn lại việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống ở vùng biên, có thể thấy, văn hóa, phong tục tập quán, các lễ hội văn hóa dân tộc được quan tâm bảo tồn, phát huy. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới đã góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú cho đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Việc gìn giữ tiếng nói, chữ viết của đồng bào các dân tộc thiểu số được thực hiện thông qua hình thức tổ chức ngày hội, giao lưu văn hóa cấp vùng, miền, khu vực, từng dân tộc và lớp truyền dạy văn hóa phi vật thể. Các thư viện địa phương đã có bộ tài liệu phù hợp với đặc điểm dân cư, phong tục tập quán của các dân tộc trên địa bàn; tủ sách cho thư viện công cộng, tủ sách văn hóa dân tộc ở cơ sở được tăng cường các xuất bản phẩm song ngữ bằng tiếng dân tộc và tiếng phổ thông. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban Dân tộc triển khai Dự án số 6: “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Nhờ vào hệ thống di sản văn hóa phong phú, nhiều tỉnh vùng biên đã phát triển du lịch thu hút khách du lịch trong nước và nước ngoài. Tiêu biểu như du lịch cộng đồng người Thái ở bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) và bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La); du lịch cộng đồng người Hà Nhì ở xã Y Tí (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai); du lịch cộng đồng người Mông ở bản Cát Cát (xã San Sả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai); du lịch cộng đồng người Dao ở bản Nậm Đăm (xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang).
Tuy nhiên, nhiều việc chúng ta thực hiện chưa thực sự tốt. Trong dòng chảy của đời sống đương đại, bản sắc văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào ít nhiều bị mai một, thậm chí còn có hiện tượng lãng quên trong một bộ phận lớp trẻ. Tại một số điểm du lịch ở khu vực biên giới, đôi khi cộng đồng không thích mặc đồ truyền thống, không còn mặn mà với nghề dệt thổ cẩm, đan lát, không tham gia các phiên chợ. Trong cuộc sống mới, các phương tiện thông tin hiện đại ra đời, người ta đã không còn dùng tiếng khèn, tiếng sáo, đàn môi hay tiếng hát giao duyên nữa. Có khi, các nam thanh, nữ tú tham dự lễ hội còn mang theo cả các thiết bị điện tử như đài cát sét, mở băng đĩa thay cho những nhạc cụ dân tộc. Thậm chí, họ còn dùng cả điện thoại di động để thay thế những đạo cụ dân tộc, mặc trang phục của người Kinh khi tham dự lễ hội... Cứ như vậy, việc thổi kèn, thổi sáo, hay hát giao duyên tỏ tình đang bị mai một trong cuộc sống.
Không chỉ ở cộng đồng người Mông, trong các cộng đồng Thái, Mường, Tày, Cao Lan, nghệ thuật hát giao duyên, hát dân ca, dân vũ, hay sử dụng nhạc cụ dân tộc cũng đang mất dần trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Phát triển du lịch ở vùng biên có nhiều tác dụng, nhưng không phải không có tác dụng tiêu cực. Các di sản văn hóa khi trở thành sản phẩm du lịch đều trải qua quá trình “hàng hóa hóa” di sản. Một tấm thổ cẩm của người Thái muốn bán được cho du khách thì phải cải biến thành các túi đeo, túi đựng điện thoại, vỏ gối... Nghi lễ nhảy lửa của người Pà Thẻn, người Dao muốn trở thành sản phẩm du lịch cũng phải được sân khấu hóa, cắt gọt phần nghi lễ, bỏ không gian thiêng, tách phần nhảy lửa khỏi tổng thể tín ngưỡng, chỉ còn tiết mục văn nghệ nhỏ lẻ là diễn xướng, nhảy lửa. Xu hướng thương mại hóa trong hoạt động du lịch cũng đang khiến nhiều nét đẹp văn hóa không còn được bảo tồn nguyên gốc. Chẳng hạn, trang phục truyền thống của nhiều đồng bào dân tộc vốn là sản phẩm được làm thủ công bằng vải tự dệt, thêu tay tỉ mỉ, nay đã được thay thế bằng các loại vải nhập khẩu hay trang phục may sẵn; không ít sản phẩm lưu niệm mang đặc trưng vùng, miền lại được nhập về từ nơi khác...
Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống vùng biên là vấn đề cần được quan tâm. Cần ý thức rằng, đây chính là bộ phận văn hóa mang bản sắc dân tộc sâu sắc nhất. Và bản sắc văn hóa tộc người đóng vai trò sống còn liên quan đến sự tồn vong của tộc người. Nói như khẳng định của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021: "Văn hóa còn thì dân tộc còn. Văn hóa và giá trị truyền thống của các dân tộc cần được coi trọng là mục tiêu, là động lực phát triển kinh tế-xã hội, ở các dân tộc, các vùng".
Văn hóa vùng biên cần được đặc biệt quan tâm, bởi biên giới là vùng lãnh thổ quốc gia có vị trí vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền, ổn định chính trị, an ninh quốc gia. Việt Nam có chung đường biên giới đất liền với ba quốc gia là Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia. Do đó, văn hóa vùng biên vừa dễ hội nhập, nhưng cũng luôn đứng trước thách thức dễ bị hòa tan. Ngày Xuân, càng dễ dàng nhận ra điều ấy. Vì vậy cần có sự quan tâm đúng mực để văn hóa truyền thống vùng biên luôn là mùa Xuân, luôn tươi tắn và xanh tươi, để văn hóa truyền thống vùng biên hành trình cùng thế hệ hôm nay đi tới tương lai.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Chí Bền, Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam