Ngã rẽ kỳ ngộ khi bước vào nghề báo
ĐTO - Hồi đó, tự thấy mình cũng xinh xinh, tôi nghĩ chắc mình hợp làm báo hình, để lúc cầm mic phỏng vấn, máy quay có lia trúng thì nhìn cũng sáng sủa, nên tôi gửi hồ sơ xin việc vào Đài Truyền hình tỉnh nhà. Tôi còn nán lại thành phố, đợi ngày lấy xong bằng tốt nghiệp sẽ về xin gặp gỡ phỏng vấn, nhưng để đặt chỗ trước, tôi nhờ ba lên tỉnh gửi hồ sơ giúp.

Tác giả Minh Phúc, thời còn làm phóng viên Báo Đồng Tháp
Câu chuyện bắt đầu hơi… sai sai
Ba tôi rất tự tin - ông vốn dĩ là cán bộ tỉnh về hưu - nên chuyện đi lại các cơ quan với ông nằm trong lòng bàn tay. Ông hoan hỉ cắp nách hồ sơ của cô con gái sắp tốt nghiệp đại học, bắt xe lên tỉnh và mạnh dạn… quẹo xe vô thẳng Tòa soạn Báo Đồng Tháp, gửi bộ hồ sơ của tôi cho chú Hồng Tư - Phòng Hành chính Trị sự. Ông quay gót ra về trong niềm vui vô biên, bữa đó, ông ghé nhà người bạn chiến khu xưa, ông uống một bữa rượu ngọt lịm tận đáy lòng, đâu biết con gái ông tá hỏa, khi nghe tin ba mình nộp hồ sơ sai chỗ.
Cái duyên làm báo viết, thay vì báo hình bắt đầu từ cái bữa trật chìa của ba tôi như thế. Con bé mới ra trường e dè rưng rưng ngấn lệ đến cơ quan mới, run rẩy định xin lại bộ hồ sơ, rồi bác Tổng Biên tập - bác Tám Hải (tên thật Nguyễn Thanh Hoàng), cũng đã gần tuổi hưu nhưng vẫn còn quắc thước đẹp lão - bước ra như trong cổ tích, nói: Thôi, bây nộp ở đây rồi thì làm ở đây đi!
Con nhỏ chẳng biết nói gì, gật đầu cái rụp. Mọi việc diễn ra nhanh, gọn lẹ, bác Tám chỉ cái phòng, trên có gắn bảng Ban Văn hóa - Xã hội, biểu: Bây vô ban đó, để giới thiệu cho Kim Cương với Kim Loan.
Ngày đầu tiên đi làm đơn giản như vậy đó. Đơn giản mà ấm áp, như cái cách mà những cô chú, anh chị, bè bạn đồng nghiệp của tôi ở Báo Đồng Tháp mà sau này, quen hơn thì tôi biết vậy. Chớ con bé tôi non choẹt và e dè của ngày đầu, đi làm báo mà đi xe đạp, ở phòng trọ, bỡ ngỡ chưa một lần đặt chân lên chính thị xã của mình, thì cũng lo lắng quắn quéo trong ruột dữ lắm. Có ai tin mình, hỗ trợ mình, chia sẻ công việc cho mình, phân công mình hay nhỡ mình không làm được ra bắp ra khoai với nghề nghiệp mà mình đã tự thích, tự chọn mà nhà mình còn không ủng hộ. Bao nhiêu câu hỏi “to bự” cứ chồng chất vô cái đầu nhỏ bé của tôi. Đã vậy, bàn tôi ngồi ngay cửa ra vào của Ban, sau lưng là 2 sếp mục sở thị, thật là “lạnh gáy” và tim đập chân run.
Tuần lễ đầu, tôi hơi tủi thân vì chẳng ai đoái hoài gì. Vô ban chào các sếp, ai cũng ngẩng lên dòm mà không thấy cười, là ớn “be sườn” dữ lắm. Tôi chỉ biết “phóng vô” phòng tư liệu, ôm hết các số báo từ mới đến cũ ra nghiên cứu, đọc tới đọc lui coi có nảy ra đề tài gì mới không. Cái gì người ta đã khai thác rồi. Bao nhiêu kinh nghiệm “nhà trường” vẫn còn văng vẳng bên tai, như lời thầy cô dặn: Mấy bây đừng có quá háo hức, cái gì mình muốn viết người ta cũng viết hết rồi. Hay như lúc đi thực tập, các nhà báo đi trước trề môi: Xã hội có nhiêu mà cứ giẫm chân nhau miết, viết với lách, đề tài này cũ xì rồi.
Đọc, đọc và đọc. Thỉnh thoảng nhìn ra hành lang, thấy mọi người xôn xao, người đi công tác cơ sở, người đi tác nghiệp mới về, ngược xuôi báo bài, ai cũng tươi tắn, sao có mỗi mình mình héo queo, thiệt rầu.
Cuối cùng, cái ngày mà tôi mong đợi cũng tới, chị Kim Loan ngoắt tôi lại, đưa cái thư bên Đoàn thanh niên của phường tổng kết một chương trình văn hóa nho nhỏ gì đó cho thanh niên trong phường, chị bận không đi nên giao cho tôi. Để khỏi phải đi trễ, tôi xách xe đạp, chạy dò coi từ chỗ cơ quan mình tới chỗ làm sự kiện là tốn bao nhiêu phút, rồi từ đó suy ra từ phòng trọ mình ở đến chỗ đó thì tốn bao nhiêu thời gian. Thị xã nhỏ thôi, nhưng với mình, một con bé chưa biết gì ở đó, thì vô cùng rộng lớn.
Phải nói, cái bữa đi dự chương trình ấy, lòng tôi còn hơn em bé trong “Tôi đi học” của Thanh Tịnh, đạp xe mà thấy con đường mình đi sao chỗ nào cũng đẹp. Dự xong, tôi hớn hở về Ban cặm cụi viết tin. Tin sâu đàng hoàng, ngắn cũng phải là tin sâu, tôi tự nhủ. Xong bản tin có 200 chữ mà phải viết nháp, rồi viết lại cho sạch như học trò làm bài thi, mới nộp lại cho Trưởng ban. Cái bản tin ấy hóa ra lại được khen. Nó như viên sỏi nhỏ, quăng vào cái ao rộng lớn, để lại một vài vòng gợn sóng, khiến tôi được chú ý hơn một chút.
Lần công tác đầu tiên, tôi đi chung với chú Tân của Ban Kinh tế - Chính trị. Ông chú “bụng to” nói giọng Bắc, ánh mắt lúc nào cũng vui và hay cười. Hẳn, chú thấy con bé chồn chân lắm rồi, nên rủ đi một chuyến về Tam Nông. Trên chiếc xe hon-da chú chở, túi bị sẵn sàng chiến đấu, 2 chú cháu tiến vào các cơ quan, nào là Ủy ban, nào là Mặt trận, nào là Phòng Văn hóa - Thông tin. Chú hăm hở giới thiệu với các nơi, đây là phóng viên mới. Tôi lanh lẹ hỏi chuyện này chuyện nọ, ghi chép, rồi về cũng viết được một bài báo nhỏ. Bài báo đầu tiên lại được khen cùng lời nhận xét của chú Tân: “Con bé này có tố chất nhà báo” và của cô Cương: “Được lắm, cứ phát huy”.
Nghe người đi trước khen mình có tố chất cho nghề, dĩ nhiên vui dữ lắm. Nhưng được khen bài viết rồi mà tôi vẫn lo, sợ mình bị kiêu ngạo. Nên tôi cứ vừa làm, vừa tự chỉnh sửa chính mình mỗi ngày. Đến đâu cũng hỏi việc đàng hoàng, ghi chép đàng hoàng chính trực, ráng tìm “điểm sáng” dù câu chuyện “tối hù”, bởi vì tôi hiểu, những điều mình viết trên báo không chỉ là những con chữ.
Sai và đúng, nhiều khi chỉ cách nhau lằn ranh mỏng
Có lẽ, tôi yêu cái nghề của mình từ những cuộc đi lang thang về cơ sở, về những nơi xa tít mù tắp, có khi thiếu thốn đủ thứ. Chúng tôi định vị mùa của mình là mùa khô, mùa nước nổi, mùa gặt lúa, mùa gieo trồng. Lên ý tưởng từ những vụ mùa tương quan với những công việc thiết thực của chính quyền với người dân, địa phương nọ với địa phương kia. Báo chí hồi đó thật là “cháy nắng” (ý là chúng tôi - các nhà báo hồi thời kỳ đó), những con chữ của chúng tôi cũng róng riết thốt lên lúc chuyện buồn, lúc chuyện vui, lúc ca hát. Sự sống của người bình dân “run rẩy” chạy lên trang báo, có khi nằm lại ở đó, trong giọt nước mắt, vì chúng tôi chỉ biết lẩy chữ mà chưa giúp được gì, nhưng cũng có khi võ òa niềm vui khi có những mảnh đời đi về “phía sáng”.
Tôi không biết mình viết được hết thảy bao nhiêu bài báo, trên tờ báo thuở ban đầu làm nghề của mình, nhưng những câu chuyện cuộc đời ở xứ mình, quê mình vừa chân chất thân thiết, vừa có gì đó khiến tôi cứ trăn trở và luôn cảm thấy mình mắc nợ. Thuở đó, xách xe chạy vô tận vùng sâu, vùng xa, đôi khi chỉ vì mùa lúa đã chín tới, nơi những người thợ cắt mướn từ khắp nơi dạt về. Họ hồn nhiên kể chuyện đời mình trên chiếc ghe cùng họ xuôi ngược, bên chén cơm nấu vội và đám cá mới giăng lưới bên sông. Ồ! Những câu chuyện chạnh lòng với tôi, nhưng với họ như là vốn dĩ. Tôi không biết sao họ yêu cuộc đời của mình còn hơn cái việc phải có một ngôi nhà, hằng bữa ăn cơm trên ghe xuồng, trên bờ lúa, một năm chắc chỉ được một cái Tết là ăn cơm ở nhà, mà riết rồi quen, thấy cái xuồng hay bờ lúa cũng vui, miễn có tiếng cười. Còn ngồi trên bàn trong nhà, nhưng “lạnh lùng sương gió” với nhau thì nuốt cơm còn hơn là nuốt sạn. Tôi nhớ mình còn nợ mấy tấm hình chụp cảnh gia đình đầm ấm ăn cơm trên xuồng, họ đã cố công vốc nước lên vuốt lại tóc, chị phụ nữ đã cười, ông chồng thì nghiêm trang vì lần đầu đứng trước ống kính, mấy đứa con ráng bụm miệng mím chi. Lúc tôi quay lại, họ đã đi rồi.
Tất nhiên, còn những bài báo “xông pha” kiểu khác, như cùng tác nghiệp với chị “sếp” ở xóm đá gà khi phản ánh về tệ nạn, tác nghiệp với chị bạn thân đồng nghiệp những câu chuyện về văn hóa đọc, văn hóa nghe nhìn của lớp thanh niên. Tôi đã thấy biết ơn, vì những đồng nghiệp, những người dẫn đường của mình khi ấy, đã chấp nhận sự thật và những gan góc, lì lợm của chúng tôi.
Thuở đó, đi đâu cũng được gọi là cô nhà báo. Về phòng trọ cũng được anh thợ hồ phòng đằng trước luôn chào bằng câu: Nhà báo lấy tin về hả? Nhà báo ăn bánh ít hông?
Cũng vậy, những công sở tôi quen, anh Ba, anh Tư, họ nói: Ờm, sao với em, cái gì anh cũng có thể nói tự nhiên, nhà báo gì bình dân dữ bây, tất nhiên có thêm câu: và trẻ trung, dễ thương nữa. Chà, nghe nói vậy là thấy mình ngầu. Ngầu ở cái tâm thế đàng hoàng, đi đâu hay làm gì, thì cũng phải đều tử tế. Ít ra, tôi thấy mình có thể làm cho chính “đồng đội” hay cô, chú, bác ở cơ quan mình, tự hào về cái “con bé nhìn nghịch nghịch” thuở nào.
Hóa ra, sau này, lúc đã trung niên và rời xa nghề báo, tôi vẫn thấy mọi câu chuyện hồi mình làm ở báo tỉnh nhà đều nằm lại đó, và lên một tiếng gọi nhận diện tha thiết: biết mình có một đoạn đời đáng nhớ, một đoạn đời đủ để nhận diện những tình cảm quê hương.