Nét xưa sắc Việt - bảo tồn và ứng dụng

Là một phần quan trọng của mỹ thuật truyền thống, tranh dân gian phản ánh đời sống tinh thần và tín ngưỡng của người Việt qua nhiều thế hệ. Trong bối cảnh hiện đại, loại hình nghệ thuật này đang đối mặt với nhiều thách thức, nhưng cũng có nhiều cơ hội bảo tồn và ứng dụng.

 Nỗ lực phục hồi và quảng bá tranh dân gian

Nỗ lực phục hồi và quảng bá tranh dân gian

Giữ sắc màu dân gian

"Sinh ra và lớn lên tại cái nôi của tranh Đông Hồ, tôi tự hào là hậu duệ đời thứ 21 của dòng họ gắn bó với nghề làm tranh. Tình yêu tranh dân gian được cha ông truyền lại thấm trong từng mạch máu, và tôi tiếp tục trao "ngọn lửa" ấy cho những thế hệ kế tiếp" - Nghệ nhân Nguyễn Đăng Tâm, làng tranh Đông Hồ, Bắc Ninh, chia sẻ.

Tranh dân gian Đông Hồ ra đời từ khoảng thế kỷ XVI - XVII và phát triển mạnh đến nửa đầu thế kỷ XX. Theo Nghệ nhân Nguyễn Đăng Tâm, sau những năm tháng tưởng như tranh Đông Hồ chìm vào quên lãng, năm 2006, với sự đồng thuận của UBND tỉnh Bắc Ninh, gia đình ông thành lập Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ, hiện thực hóa tâm huyết bảo tồn nghề cha ông. Đến nay, Trung tâm quy tụ 15 thành viên là những người con, người cháu trong gia đình chung tay gìn giữ tinh hoa văn hóa. Năm 2024, bảo tàng thu nhỏ của gia đình cũng được mở cửa, mang đến cho du khách cơ hội tìm hiểu sâu hơn về nghề làm tranh Đông Hồ.

 Nỗ lực phục hồi và quảng bá tranh dân gian. Ảnh: N. Phương

Nỗ lực phục hồi và quảng bá tranh dân gian. Ảnh: N. Phương

Mỹ thuật dân gian Huế hiện diện trên nhiều loại hình và chất liệu, tại các làng nghề truyền thống lâu đời quanh kinh đô Huế, nổi bật là tranh thờ cúng làng Sình (Lại Ân) và tranh trướng liễn làng Chuồn (An Truyền)… PGS.TS Phan Thanh Bình, Trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế, cho biết, đến nay, các nghệ nhân làng nghề truyền thống ở Huế đang gặp nhiều khó khăn trong duy trì nghề, do sự cạnh tranh gay gắt từ các sản phẩm công nghiệp. Điều này dẫn đến nguy cơ mai một nghệ thuật dân gian, khi nhiều nghệ nhân phải chuyển sang nghề khác để mưu sinh, còn những người ở lại chật vật bảo tồn.

Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa cũng tác động không nhỏ đến mỹ thuật dân gian. Sự thay đổi mẫu mã, kích thước tranh ở làng Sình để đáp ứng nhu cầu lưu niệm, hay sự hòa trộn yếu tố hiện đại vào các sản phẩm truyền thống, vừa mang đến cơ hội tiếp cận khách hàng mới, vừa đặt ra thách thức trong giữ gìn bản sắc…

Tiếp cận sáng tạo để bảo tồn và quảng bá

Tranh dân gian Việt Nam, với những dòng tranh nổi tiếng như Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng, làng Sình... không chỉ là một loại hình nghệ thuật mà còn là một phần không thể tách rời của văn hóa dân tộc. PGS. TS. Đoàn Thị Mỹ Hương, nguyên Trưởng Ban Nghiên cứu nghệ thuật, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam nhận định: có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, cho dù nội dung và mục đích sử dụng khác nhau, nhưng về cơ bản, các dòng tranh dân gian đều chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố văn hóa, xã hội và tâm linh của người Việt theo từng giai đoạn lịch sử. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và hiện đại hóa đặt ra những thách thức lớn để tồn tại đối với nghề làm tranh dân gian, như sự suy giảm về mức độ phổ biến, sự mai một của kiến thức truyền thống, sự thay đổi trong thị hiếu của công chúng...

Thực tế, một số dòng tranh dân gian đã biến mất hoặc không còn thịnh hành như trước. Số lượng nghệ nhân tâm huyết với nghề cũng ngày càng ít. Tại làng Đông Hồ, số lượng hộ gia đình và nghệ nhân làm tranh đã giảm sút nghiêm trọng. Dòng tranh Hàng Trống chỉ còn một nghệ nhân lớn tuổi nắm giữ kỹ thuật truyền thống. Dòng tranh Kim Hoàng thậm chí đã biến mất sau trận lũ năm 1947, và những nỗ lực phục hồi chỉ mới bắt đầu gần đây.

Mặc dù vậy, nhận thức về giá trị văn hóa và lịch sử của tranh dân gian Việt Nam ngày càng được nâng cao, dẫn đến nhiều nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này. Nhà nước và các cơ quan quản lý đã có những chính sách và hành động cụ thể, thể hiện qua việc đưa tranh Đông Hồ vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và đang đề nghị UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Các tổ chức văn hóa, bảo tàng và viện nghiên cứu cũng đóng vai trò quan trọng trong lưu giữ, nghiên cứu và trưng bày tranh dân gian. Một số nghệ nhân và gia đình vẫn kiên trì giữ gìn các kỹ thuật truyền thống và nỗ lực truyền dạy cho thế hệ trẻ. Nhiều dự án cộng đồng và sáng kiến cá nhân cũng được triển khai nhằm phục hồi và quảng bá các dòng tranh đặc sắc như Kim Hoàng và Hàng Trống…

Du lịch văn hóa trở thành một hướng đi tiềm năng, thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan các làng nghề và tìm hiểu về quy trình làm tranh. Việc đưa tranh dân gian vào các chương trình giáo dục giúp học sinh hiểu biết hơn về văn hóa dân tộc. Các họa tiết và màu sắc từ tranh dân gian cũng được khai thác trong thiết kế đương đại, thời trang và các sản phẩm sinh hoạt hàng ngày. Sự tham gia của các nghệ sĩ và nhà thiết kế trẻ, cùng với việc ứng dụng các công nghệ mới như kỹ thuật số và trình chiếu 3D, đang mang lại những cách tiếp cận sáng tạo để bảo tồn và quảng bá tranh dân gian…

Mỹ thuật truyền thống, trong đó có tranh dân gian, không chỉ phản ánh những giá trị lịch sử và văn hóa, mà còn là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nghệ thuật đương đại, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong quảng bá hình ảnh quốc gia ra thế giới. PGS.TS. Bùi Thị Thanh Mai, Trường Đại học Tôn Đức Thắng góp ý các giải pháp phát huy giá trị di sản này, bao gồm: xây dựng chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị di sản gắn với bối cảnh hội nhập toàn cầu; đẩy mạnh giáo dục mỹ thuật truyền thống trong cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ; ứng dụng công nghệ hiện đại vào nghiên cứu, quảng bá và truyền tải giá trị di sản. Thúc đẩy hợp tác quốc tế để tạo cơ hội đổi mới, làm phong phú thêm không gian giao thoa giữa di sản truyền thống và nghệ thuật đương đại, từ đó sáng tạo, nâng cao giá trị nghệ thuật của di sản Việt Nam…

Ngọc Phương

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/net-xua-sac-viet-bao-ton-va-ung-dung-post407714.html
Zalo