Nâng cao giá trị nông sản nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Trước đây, sắn là cây lương thực và giúp xóa đói, giảm nghèo cho nhiều hộ dân vùng nông thôn. Nhưng hiện nay, sắn đang trở thành cây công nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu, sản xuất nhiên liệu sinh học.

Người dân xã Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa chế biến sắn. (Ảnh: BÌNH MINH)
Tinh bột sắn và sắn lát là một trong bảy mặt hàng xuất khẩu quan trọng với giá trị bình quân đạt hơn 1,1 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2015-2024. Tuy nhiên, sản xuất sắn hiện nay quy mô còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết giữa nhà máy với nông dân; ứng dụng khoa học kỹ thuật trong thâm canh chậm; cơ giới hóa trong sản xuất hạn chế…
Tạo thu nhập cho người dân vùng khó khăn
Việt Nam là quốc gia sản xuất sắn đứng thứ chín về diện tích và thứ bảy về sản lượng trên thế giới. Hiện nay, cả nước có khoảng 517 nghìn ha trồng sắn với sản lượng hơn 10 triệu tấn củ tươi/năm; hơn 140 nhà máy chế biến tinh bột sắn với tổng công suất thiết kế 13,4 triệu tấn củ tươi/năm. Những năm qua, sản xuất sắn đã chứng minh hiệu quả vì phù hợp với điều kiện ở những vùng đất khó khăn, chi phí lao động thấp. Ở một số nơi quy mô sản xuất sắn bình quân khoảng 1 ha/hộ đã tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho người nông dân, nhất là những địa phương miền núi...
Theo ông Đỗ Văn Dũng, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, những năm gần đây, cây sắn đã, đang giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu cây trồng trên địa bàn. Với diện tích canh tác hằng năm từ 13 đến 15 nghìn ha tập trung ở các xã miền núi, trung du, sản lượng đạt hơn 250 nghìn tấn củ tươi/năm. Qua thống kê với năng suất đạt từ 17 tấn/ha trở lên, nông dân có lợi nhuận hơn 10 triệu đồng, tương đương hoặc cao hơn trồng mía, ngô, keo...
Bà Nguyễn Thị Mai, thôn 9, xã Lam Sơn (Thanh Hóa) chia sẻ: “Trước đây, gia đình tôi trồng mía với diện tích 1 ha nhưng do đất dốc cho nên hiệu quả kém. Vì vậy, 5 năm nay gia đình tôi chuyển sang trồng sắn. Loại cây này phù hợp với đất dốc, đầu tư thấp. Vụ sắn năm nay, gia đình tôi thu được khoảng 20 tấn, thương lái thu mua 7 nghìn đồng/kg, hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với trồng mía”.
Trong 5 năm trở lại đây, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã, đang thực hiện 6 dự án xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất sắn bền vững với diện tích 1.130 ha ở nhiều địa phương.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng chia sẻ: “Các dự án đã góp phần tăng năng suất sắn, giúp người dân nâng cao trình độ canh tác, giảm xói mòn đất, bảo vệ môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế hơn 15% so với trồng đại trà...”.
Hiện nay, mô hình canh tác bền vững trên đất dốc với cây trồng chính là ngô, sắn tại miền núi phía bắc quy mô 350 ha. Mô hình giúp tăng năng suất sắn hơn 10%, giảm tỷ lệ xói mòn đất, cung cấp 50 đến 60 tấn cỏ/ha/năm cho chăn nuôi gia súc; thu nhập tăng từ 10 đến 15% so với canh tác thông thường.
Mô hình sản xuất sắn thương phẩm sạch bệnh với 150 ha ở tỉnh Tây Ninh năng suất trung bình đạt 35,5 tấn/ha/vụ, tăng hiệu quả 16,9% so với sản xuất đại trà. Mô hình sản xuất sắn bền vững theo chuỗi giá trị tại một số địa phương miền núi phía bắc có quy mô 290ha giúp năng suất bình quân đạt 38 tấn/ha/vụ, tăng 26,67%, hiệu quả bình quân tăng 33,9%; mô hình sản xuất, thâm canh giống sắn mới sạch bệnh gắn với tiêu thụ tại khu vực Bắc Trung Bộ quy mô 150ha, năng suất bình quân từ 35,8 đến 37,5 tấn/ha/vụ, hiệu quả kinh tế cao hơn so với sản xuất đại trà từ 22,8 đến 27,2%.
Tăng cường chế biến sâu
Thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn 10 tháng năm 2025 đạt 3,4 triệu tấn, giá trị 1,04 tỷ USD, chủ yếu ở thị trường Trung Quốc với 93%.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) như: CPTPP, EVFTA, RCEP… mở ra cơ hội lớn cho xuất khẩu nông sản, trong đó có sản phẩm từ sắn. Tuy nhiên, các hiệp định này cũng đặt ra yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn môi trường. Nếu không đổi mới công nghệ đầu tư vào chế biến sâu, bảo quản, xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị, ngành sắn sẽ khó cạnh tranh và dễ bị tụt hậu.
Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần sản xuất và chế biến nông lâm sản và vật tư nông nghiệp Phúc Thịnh tỉnh Thanh Hóa Nghiêm Minh Tiến cho biết: “Muốn phát triển cây sắn bền vững, lâu dài cần phải gắn nhà máy với vùng nguyên liệu. Nếu vùng nguyên liệu đầu tư tốt, năng suất cao, thu nhập ổn định người trồng sẽ yên tâm sản xuất.
Hiện nay, nhà máy đang liên kết với 50 nhóm hộ trên địa bàn tỉnh, diện tích 7.000ha. Với công suất 250 tấn sản phẩm/ngày, nhà máy đang chế biến theo hướng tuần hoàn, trong đó tinh bột để xuất khẩu, bã sắn chế biến làm thức ăn gia súc, bùn, vỏ làm phân hữu cơ. Vừa qua, công ty khởi công xưởng sản xuất sản phẩm sau tinh bột nhằm tạo ra chuỗi giá trị cao hơn giúp hiệu quả tăng hơn 1,5 lần”.
Đề án phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đưa ra mục tiêu cụ thể, đến năm 2030 diện tích trồng sắn cả nước từ 480 nghìn đến 510 nghìn ha, sản lượng củ tươi đạt 11,5 đến 12,5 triệu tấn. Trong đó, sản lượng sắn tươi dùng chế biến sâu một số sản phẩm như: Tinh bột, ethanol, mỳ chính… chiếm khoảng 85%. Diện tích trồng sắn sử dụng giống đúng tiêu chuẩn, chất lượng đạt từ 40 đến 50%; diện tích áp dụng quy trình canh tác bền vững đạt 50%; kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 1,8 đến 2 tỷ USD…
Để phát triển bền vững và nâng cao chuỗi giá trị cây sắn, theo Hiệp hội Sắn Việt Nam, các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cấp thiết bị công nghệ hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường nhập khẩu. Trong đó, ưu tiên đầu tư theo hướng sản xuất các sản phẩm chế biến sâu, giúp nâng cao chuỗi giá trị; sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường, nâng cao chất lượng theo hướng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phó Trưởng phòng Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Đinh Công Chính cho rằng, thời gian tới, các địa phương cần hỗ trợ các gia đình và doanh nghiệp đầu tư vùng nguyên liệu tập trung, cơ sở chế biến và phát triển thương hiệu sản phẩm; hỗ trợ phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã… để tạo liên kết bền vững gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục đầu tư lưu giữ nguồn gen các giống sắn, nhất là nhóm có sản lượng, trữ lượng bột cao; chọn tạo, sản xuất hoặc nhập nội các giống sắn cao sản, có khả năng chống chịu sâu bệnh, thích ứng biến đổi khí hậu.
Đồng thời, hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm sắn, đa dạng hóa các kênh phân phối, hình thành các sàn giao dịch; đẩy mạnh các hoạt động kết nối cung-cầu, quảng bá, xúc tiến thương mại sản phẩm sắn tại thị trường trong nước; đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu.





























