Lý giải việc Mỹ áp thuế 55% với Trung Quốc trong khi chỉ phải chịu thuế 10%
Ngày 11/6, Tổng thống Donald Trump thông báo rằng thỏa thuận thương mại của Mỹ với Trung Quốc đã hoàn tất và đi kèm với đó là các mức thuế quan mà mỗi bên áp đặt lên hàng hóa xuất khẩu của bên còn lại.

Tổng thống đắc cử Donald Trump tới dự lễ nhậm chức nhiệm kỳ mới tại Arlington, Virginia, Mỹ ngày 19/1/2025. Ảnh: REUTERS/TTXVN
“Chúng ta nhận được tổng cộng 55% thuế quan, Trung Quốc nhận được 10%. Mối quan hệ thật tuyệt với”, ông Trump viết trên mạng xã hội Truth Social mà không giải thích thêm về nội dung bài đăng của mình.
Chính điều này đã khiến nhiều người đặt ra những nghi vấn về nội dung thông báo trên khi mà mức thuế quan mà mỗi bên áp lên đối tác của mình có sự chênh lệch khá lớn, đồng thời cũng không tương đồng với kết quả cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung trong tháng 5. Đã có nhiều người đặt ra câu hỏi: Liệu rằng Trung Quốc đã phải chịu một sự nhượng bộ lớn hơn để đạt được thỏa thuận với Mỹ?

Bài đăng của Tổng thống Trump trên mạng xã hội Truth Social ngày 11/6. Ảnh chụp màn hình
Tuy nhiên, một quan chức của Nhà Trắng đã đưa ra những nhận định của mình về tuyên bố "gây tranh cãi" trên. Người này cho rằng tuyên bố trên của ông Trump không phải là một điều bất bình thường và khoản thuế 55% mà Tổng thống Mỹ nêu ra cũng không phải là điều gì quá mới lạ.
Theo hãng tin Reuters, quan chức này cho rằng con số mà ông Trump đưa ra bao gồm: mức thuế cơ bản 10% được áp dụng với hầu hết các đối tác trên toàn cầu theo tuyên bố được đưa ra hồi tháng 4; mức thuế 20% mà Mỹ tuyên bố áp trước tháng 4 liên quan đến cáo buộc liên quan chất fentanyl. Và phần còn lại 25% là các mức thuế quan mà ông Trump đã áp đối với hàng hóa Trung Quốc từ nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên cũng như các mức thuế khác trước đó có liên quan được ông cộng dồn vào.
Trong khi đó, phía Trung Quốc vẫn sẽ áp mức thuế quan 10% theo những gì mà hai bên đã đạt được thỏa thuận trong cuộc đàm phán hồi tháng 5 vừa qua.
Cũng tuyên bố ngày 11/6 của mình, Tổng thống Trump cho biết rằng thỏa thuận mà Mỹ và Trung Quốc “đã hoàn tất” vẫn cần được chính ông và Chủ tịch Tập Cận Bình phê duyệt lần cuối. Bên cạnh đó, ông cũng tiết lộ rằng trong thỏa thuận đạt được tại London, Trung Quốc sẽ cung cấp đất hiếm, nam châm đất hiếm cho Mỹ. Đổi lại, Mỹ cũng sẽ thực hiện đúng những gì đã cam kết, bao gồm việc tiếp tục cho sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học và cao đẳng ở Mỹ.
Trước đó, sau hai ngày đàm phán cấp cao tại London từ ngày 9-10/6, Mỹ và Trung Quốc thông báo đã đạt được thỏa thuận khung then chốt, mở ra triển vọng mới trong việc giải quyết các bất đồng thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Điểm đột phá quan trọng của cuộc đàm phán là sự đồng thuận về khuôn khổ thực thi các thỏa thuận đã đạt được giữa lãnh đạo hai nước trong cuộc điện đàm ngày 5/6 và tại cuộc gặp ở Geneva trước đó. Thỏa thuận khung này được kỳ vọng sẽ tháo gỡ các nút thắt trong quan hệ thương mại song phương, đặc biệt là vấn đề đất hiếm và nam châm.
Bộ trưởng Thương mại Mỹ Howard Lutnick thể hiện thái độ lạc quan về triển vọng giải quyết các tranh chấp thương mại, mặc dù thỏa thuận vẫn cần được lãnh đạo hai nước chính thức phê chuẩn. Quan điểm này cũng được Đại diện Thương mại Mỹ Jamieson Greer chia sẻ khi khẳng định Washington đang thúc đẩy tiến trình một cách tích cực.
Trong khi đó, Phó Thủ tướng Trung Quốc Hà Lập Phong nhấn mạnh Mỹ nên hợp tác với Trung Quốc để hiện thực hóa lời nói bằng hành động, và thể hiện sự chân thành trong việc duy trì các cam kết và nỗ lực cụ thể để thực hiện sự đồng thuận, qua đó cùng nhau bảo vệ các kết quả đạt được của đối thoại. Ông Hà Lập Phong khẳng định không có bên nào chiến thắng trong các cuộc chiến tranh thương mại. Ông cũng kêu gọi Mỹ giải quyết các tranh chấp thương mại với Trung Quốc thông qua đối thoại bình đẳng và hợp tác cùng có lợi.
Cuộc đàm phán trên diễn ra trong bối cảnh cấp thiết khi hai nước đang tìm kiếm giải pháp cho các bất đồng về hạn chế xuất khẩu và thuế quan. Đặc biệt, vấn đề trì hoãn phê duyệt vận chuyển đất hiếm từ phía Trung Quốc đã được Mỹ nêu ra như một điểm nghẽn cần được giải quyết trong quan hệ thương mại song phương.