Luật sư Bùi Thanh Vũ tư vấn pháp luật liên quan diện tích trên giấy CNQSD đất ít hơn diện tích thực tế
Luật sư Bùi Thanh Vũ-Trưởng Văn phòng Luật sư Vinh Phú kiêm Trưởng Chi nhánh Gia Lai tư vấn về thủ tục sang tên quyền sử dụng đất khi diện tích trên giấy chứng nhận ít hơn thực tế.
-* Bạn đọc K.T. hỏi: Tôi muốn sang tên quyền sử dụng đất nhưng diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) ít hơn diện tích thực tế thì phải làm thủ tục gì? Thủ tục cấp đổi GCNQSDĐ do thay đổi diện tích như thế nào?
-Luật sư Bùi Thanh Vũ-Trưởng Văn phòng Luật sư Vinh Phú kiêm Trưởng Chi nhánh Gia Lai-trả lời:
Điểm i khoản 1 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP về các trường hợp cấp đổi GCNQSDĐ đã cấp quy định gồm: “Thay đổi kích thước các cạnh, diện tích, số hiệu của thửa đất do đo đạc lập bản đồ địa chính, trích đo địa chính thửa đất mà ranh giới thửa đất không thay đổi”.
Do đó, trường hợp GCNQSDĐ có diện tích ít hơn so với diện tích thực tế mà ranh giới không thay đổi thì nên làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận để đo đạc lại chính xác diện tích thực tế sử dụng trước khi làm thủ tục sang tên.
Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất chuẩn bị hồ sơ quy định tại khoản 2 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP gồm:
- Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 11/ĐK ban hành kèm theo Nghị định số 101/2024/NĐ-CP và giấy chứng nhận đã cấp.
- Mảnh trích đo bản đồ địa chính thửa đất đối với trường hợp trích đo địa chính thửa đất quy định tại điểm i khoản 1 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP.
Sau đó, gửi hồ sơ đến cơ quan tiếp nhận hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP.
Cơ quan tiếp nhận hồ sơ cấp giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Trường hợp cơ quan tiếp nhận hồ sơ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP thì chuyển hồ sơ đến văn phòng đăng ký đất đai.
Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện cấp đổi GCNQSDĐ do thay đổi diện tích so với giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP:
- Khai thác, sử dụng thông tin về tình trạng hôn nhân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP.
+ Trường hợp không khai thác được thông tin về tình trạng hôn nhân thì người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nộp bản sao giấy đăng ký kết hôn hoặc giấy tờ khác về tình trạng hôn nhân.
- Trường hợp thay đổi địa chỉ của thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quy định tại điểm h khoản 1 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP thì cơ quan giải quyết thủ tục sử dụng thông tin từ văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc thay đổi để giải quyết thủ tục;
- Trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 38 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP thì thực hiện kiểm tra thực địa và đối chiếu với hồ sơ đăng ký, cấp giấy chứng nhận đã cấp để xác định đúng vị trí thửa đất;
- Trường hợp giấy chứng nhận đã cấp chưa sử dụng bản đồ địa chính hoặc trích đo bản đồ địa chính thửa đất thì thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 37 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP.
- Gửi phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai theo Mẫu số 12/ĐK ban hành kèm theo Nghị định số 101/2024/NĐ-CP đến cơ quan thuế để xác định và thông báo nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính;
- Chỉnh lý, cập nhật biến động vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; trao GCNQSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc gửi cơ quan tiếp nhận hồ sơ để trao cho người được cấp.
Sau khi được cấp giấy theo diện tích thực tế thì các bên tiến hành ký kết hợp đồng và làm thủ tục sang tên.